NGUYỄN THIÊN THỤ * TẢN ĐÀ

 
TẢN ĐÀ (1889-1939) , TIỂU THUYẾT GIA  ĐẦU TIÊN 
CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM 
NGUYỄN THIÊN THỤ 


        Tản Đà là một nho sĩ  thuộc lớp nho sĩ cuối cùng của nền Hán học Việt Nam. Sau lần hỏng thi khoa Nhâm Tý (1912), ông mới thôi nghề khoa cử. Lúc này, ông có dịp được đọc các tân thư Trung Quốc dịch của người Thái Tây và rất ham đọc báo chí Trung Quốc. Sự nghiệp làm báo của Tản Đà bắt đầu được khơi gợi từ đây. Chính trong "Giấc mộng lớn", ông đã viết: "Ngoài sự làm văn thơ, chỉ mê thiết xem các thứ nhật trình Tàu. Cảnh ngộ vô tình mà cái cơ duyên báo chí sau này cũng phát đoan từ đấy".
Tư tưởng của Tản Đà phát xuất từ đây. Ông cũng như các bậc nho sĩ thời ấy như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Lê Đại...đã say mê đọc Tân Thư Trung Hoa mà hiểu Cách mạng Pháp 1789, tư tưởng dân chủ của Lư Thoa, Mạnh Đưc Tư Cưu và cách mạng Tháng Mười Nga.


Tản Đà cũng là người đầu tiên viết du ký giả tưởng. Giấc Mộng Con I và Giấc Mộng con II đều là những chuyến viễn du trong trí tưởng.


1. GIẤC MỘNG CON I





Giấc Mộng Con I viết năm 1916, in năm 1917, quyển 2 in năm 1932. Năm 1941, nhà in Hương Sơn Hà Nội in hai quyển làm một, khổ nhỏ, dày 147 trang. Giấc Mộng Con là một tập du ký tưởng tượng qua các nước Âu Mỹ. Trong Giấc Mộng Con I, Tản Đà du lịch trên trái đất, sang Giấc Mộng Con II, Tản Đà du lịch ở cõi trời. Ông gặp Ngọc hoàng, than thở về cảnh ngộ của ông khi làm An Nam tạp chí. Câu chuyện này, Tản Đà cũng đã trình bày trong bài thơ Hầu trời.. Trong mộng, Tản Đà đi từ Sài Sơn vào Sài Gòn, từ Sài Gòn xuống tàu thủy sang Marseille, đến Saint-Étienne làm thư ký cho một tiệm bán đồ vàng bạc, rồi quen biết một thiếu nữ tên Chu Kiều Oanh, vì sơ ý để mất hàng, phải trốn sang Mỹ, nhờ một thiếu nữ Mỹ là Woallak giúp kế trốn sang New York, rồi đi Nam Mỹ, Brésil. Sau nhà chức trách điều tra tìm ra thủ phạm, tác giả trở về làm việc ở chỗ cũ. Sau tác giả lại qua nhiều nước Anh, Thụy Sĩ, Nga, Trung quốc, Ấn Độ, Phi rồi về cố hương sau tám năm phiêu bạt. Về đến nhà, tác giả nhận được thư Chu Kiều Oanh.

Có lẽ Giấc Mộng Con là tác phẩm đầu tiên của Việt Nam về tiểu thuyết viễn du. Trước đó, như đã trình bày, Trần Chánh Chiếu với Hương Cảng Nhân Vật là tác phẩm du lịch đầu tiên, nhưng tác phẩm của Trần Chánh Chiếu là sự thực, là một thiên hồi ký ngắn, còn Giấc Mộng Con của Tản Đà là một truyện vừa, có tính cách sáng tạo.


Tản Đà là một thi sĩ, và là một văn nhân ôm nhiều mộng tưởng. Giấc Mộng Con là một sự thoát ly khỏi thực tại để mơ đến một chân trời xa xôi. Nguyễn Tiến Lãng trong lời Tựa viết năm 1941 cho Giấc Mộng Con do nhà Hương Sơn xuất bản, đã nói lên nguồn gốc quyển này: ''Giấc Mộng Con'' là một cuộc thử thách thoát ly ( une tentative d'évasion) của một nhà thiếu niên nho sĩ, mơ được những sự viễn du, mà chỉ được du lịch bằng trí tưởng tượng sau khi đọc những sách tân thư của người Tàu xuất bản để mô tả những cảnh vật, phong thổ, chủng loại, văn minh của các nước trong hoàn cầu'' (iv)

Giấc Mộng Con của Tản Đà đã bộc lộ '' cái tôi'' của mình. Trước tiên, Tản Đà là con người có nhiều cao vọng vươn lên, không muốn làm những kẻ tầm thường. Nhìn con diều hâu bay trên trời cao, Tản Đà suy nghĩ: Nghĩ cho con người ta có cái thân ở đời mà không làm được nên sự nghiệp gì [. ..] mà nếu chỉ lờ lững ở dưới bóng tà đuơng, hay chen vai nhau ở trong cái xe điện, thời chẳng thà được như con diều hâu đó đem cái thân mà làm bạn với trời xanh (95).

Tản Đà cũng như một số người cho rằng mình xuống cõi trần là mang một sứ mạng thiêng liêng. Trong bài thơ Hầu trời, Tản Đà viết:

Trời rằng:'' không phải là trời đày,
Trời định sai con một việc này,
Là việc thiên lương của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay. . . 


Trong Giấc Mộng Con II, Thượng Đế cũng khuyên Tản Đà:

Vậy từ nay con phải để thì giờ mà làm dần việc ''thiên lương'' đó đi thời con sớm được trở về thiên giới (114).

Giấc Mộng Con I còn bộc lộ lý tưởng và sự tự hào của ông về mục đích ''làm một nhà văn học kiêm triết học'' ở Đông Dương (89). Giấc Mộng Con II cũng vậy. Các tác phẩm của Tản Đà được chư tiên khen ngợi ( 100-101). Trên Thiên Đình, sách của Việt Nam rất ít, chỉ có mấy tác phẩm của Tản Đà là được kén chọn và bày bán (107-108).

Nguyễn Tiến Lãng nhận định về nội tâm của Tản Đà:

Giấc Mộng Con lại còn là một tiếng gọi của một nhà thiếu niên văn sĩ muốn đem cái văn tài ra mà làm những việc vì dân vì nước, nhưng luống nặng một khối tình thi sĩ, cho nên luống ước ao gặp người tri kỷ,vì có gặp tri kỷ thì mới có can đảm mà đem cái chương trình của mình ra mà thực hành. Vì một sự khiêm nhượng và e lệ (purdeur), cái chương trình hành động về văn chương và xã hội của Tản Đà, Tản Đà không dám trắng trợn mà phô bày ra. Phải mượn chuyện mộng mị và tự vẽ ra một hình ảnh cô Chu Kiều Oanh, người ý trung nhân rất thông minh và rất đa cảm, để nhờ ý trung nhân ấy thổ lộ giúp cho cái mộng muốn làm '' nhà văn học kiêm triết học ở Đông Dương'' (v).

Giấc Mộng Con I là một giấc mơ về một xã hội đại đồng, một xã hội theo kiểu Utopia. Xã hội này nằm ở vùng Washington của Mỹ, như một cõi Thiên Thai mà Tản Đà gọi là " Cõi Đời Mới". Cõi Đời Mới này có những đặc điểm như sau:

-Khoa học, kỹ thuật tiến bộ (51-52, 57)
-Không có bò lợn, gà, dê (56)
-Súc vật hiểu tiếng người (61)
-Bầu cử dân chủ (62)
-Lao động tập thể tùy sức (62-63)
-Nhà ăn tập thể (63)
-Không có của riêng (63)
-Không có tiền bạc, mua bán (64)
-Xã hội an ninh, hạnh phúc: không có thiên tai, trộm cắp, không tù tội, kiện cáo, không buôn danh bán lợi... (64)
-Tài nguyên, vật dụng không thiếu (65)
-Xã hội tiến hóa (66)



2. GIẤC MỘNG CON II

Giấc Mộng Con II là một tiểu thuyết giả tưởng mà cũng là một tiểu thuyết luận đề. Cũng như tác phẩm Utopia của Thomas More, Giấc Mộng Con II là một giấc mơ, một kế hoạch cho một xã hội công bình, thịnh vượng và hạnh phúc. Giấc Mộng Con I là nói về Thiên Đường tại thế. Giấc Mộng Con II là cõi Thiên Thai trên thượng giới. Hai cõi trên trời dưới đất khác nhau nhưng cũng là giấc mơ Thế giới Đại Đồng, giấc mở của Utopia lý tưởng. Tản Đà mơ một thế giới của những vị tiên. Trong đó cò ba hạng người: đạo đức, nghĩa liệt và tài hoa (102). Trên Thiên Đình, không tổ chức theo các bộ như ngoại giao, nội vu, quốc phòng và kinh tế như ở cõi trần, mà được tổ chức theo các ban triết học, đạo đức, khoa học, văn chương và nhiều ban khác (113). Trong Utopia, con người bị bắt buộc làm việc tập thể, trong cảnh tiên, cũng là sống chung nhưng cuộc sống thanh nhàn và đầy đủ.

Nguyên sự thể ở Thiên Đình mỗi người một việc- cũng có phần ít , người không có việc thời đối với chư tiên có phần kém giá trị- mà các vật cần dùng thời chỗ chợ đó là của chung cho khắp cả ai ai. Rượu ai muốn uống, tha hồ uống; hoa, ai muốn lấy, tha hồ lấy; quả, ai muốn ăn, tha hồ ăn; sách, ai muốn coi, tha hồ coi (107).

Tản Đà cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng Đại Đồng khi ông viết Giấc Mộng Con II. Ông ca tụng cảnh tiên mà ông đã mô tả:

Trời như thế mới là trời! Thật là ''thủ chi bất cấm, dụng chi bất kiệt''! Thật là ''chí công vô tư''! Nghĩ cho cài tư tưởng đại đồng ở hạ giới mà có ngày được thực hiện như thế chăng, thời thật là hạnh phúc chonhân loại biết bao! (108).

Giấc Mộng Con II của Tản Đà là giấc mơ cộng sản. Năm 1930, đảng Cộng sản Việt Nam vừa tập họp, tất cả còn trong vòng bí mật, nhưng từ 1932 Tản Đà đã tuyên bố một đường lối cộng sản lý tưởng. Tản Đà là người độc lập. Tư tưởng ông là do đọc Tân thư Trung Hoa. Có lẽ ông đã đọc bản dịch Utopia, và đã đọc về chủ nghĩa Marx với khẩu hiệu “ làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” –các tận sở năng-các thủ sở nhu-各盡所能各取所嚅-From each according to his ability, to each according to his needs!).

 Nhưng Tản Đà không theo Marx, không theo đảng Cộng sản. Trong khi Marx lấy công nhân, lấy giai cấp vô sản làm giai cấp lãnh đạo thì Tản Đà lấy văn nhân, triết gia đạo đức làm căn bản. Trong khi Marx chủ trương cưỡng bách lao động thì Tản Đà chủ trương một thế giới thần tiên nhàn hạ, suốt ngày tháng ngao du hoặc vui với văn học, nghệ thuật. Ông theo chủ nghĩa Đại Đồng, theo đường lối cao hơn Utopia, chống đối Marx và Cộng sản. Khi Giấc Mộng Con I mới ra đời, Phạm Quỳnh đã có bài phê bình trên Nam Phong số 7, tháng1-1918. Phạm Quỳnh đã phân chia mộng với mị: mộng là cảnh đời tươi đẹp hoặc bi thảm thấy trong lúc ngủ say, còn mị là cảnh đời không đầu không đuôi thấy lúc gần sáng. Ông viết: Nhân đọc sách Giấc Mộng Con của ông Hiếu mà biện biệt được mộng mị là thế, và tự hỏi giấc mộng của ông là mộng hay mị? Có nhẽ cũng mới là một giấc mị mà thôi. . . . Lãy cái bụng liên tài, ái tài mà tự hỏi vì cớ sao ông khởi ra cái mộng như thế, thì biết rằng vì cái cảnh ngộ, nó đã khiến cho thân chẳng bằng mộng, nên mộng cho cam thân. 
Phạm Quỳnh rõ là độc ác bất nhân, mai mỉa cái " cảnh ngộ" đắng cay của Tản Đà trên báo chí. Báo chí là công đạo sao lại lợi dụng quyền tự do ngôn luận để chửi bới, mạ lỵ cá nhân.Phạm Quỳnh, Thế Lữ, Nhất Linh  là những kẻ bất nhân và tiểu tâm khi cười cợt, chế nhạo Tản Đà. Ôi, thế sự thăng trầm, cuộc đời có vinh có nhục, có thành có bại, ai công hầu, ai khanh tướng, ai dám cười cợt ai?

Những tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Bá Trác thuộc loại phiêu lưu, và cũng thuộc loại hồi ký, nhưng là hồi ký về một vấn đề giới hạn trong một thời gian ngắn. Còn Giấc Mộng Lớn thực sự là hồi ký vì ông viết về cuộc đời của ông từ khi lên năm (1893) cho đến khi làm báo thất bại ( kỷ tị 1929), tổng cộng 36 năm. Tuy vậy, ngoài bìa đề là tiểu thuyết. Ông cho rằng đời là giấc mộng. Giấc Mộng Con là tiểu thuyết thì Giấc Mộng Lớn cũng là tiểu thuyết. Tiểu thuyết hay là sự thực là tùy ở độc giả. Trong lời Tựa, ông viết:

Thôi thời kỷ thực hay tiểu thuyết, tự độc giả cho sao thì sao. Tác giả chỉ cứ theo sự chiêm bao mà tùy ý chép ra, không có mạch lạc, không có quy tắc, không kể việc khinh trọng. . . chẳng qua là một cuốn văn chơi, tưởng cũng không quan hệ đến những phẩm bình của các bậc đại nhã cao nhân .


Năm 1929, cộng sản hai phe đệ tứ và đệ tam bắt đầu hoạt động (1)  nhưng Tản Đà đã hoạt động xã hội chủ nghĩa từ 1916 bằng con đường văn hóa.
Khoảng 1940, thi ca , tiểu thuyết cộng sản mới xuất hiện (2).  nhưng chỉ là tiểu thuyết xã hội, chỉ có Tản Đà vươn lên tiểu thuyết chủ đề,  viết về căn bản của cách mạng xã hội nhân bản.
Nhưng chủ nghĩa xã hội của Tản Đà là  chủ nghĩa xã hội nhân bản, theo lý tưởng bác ái, bình đẳng toàn dân hạnh phúc của Thich Ca, Khổng Tử, khác với chủ nghĩa cộng sản gian ác của Marx với đảng Cộng sản, giai cấp vô sản, vô sản chuyên chính, cưỡng bách lao động, xóa bỏ tư hữu, tiêu diệt văn hóa cổ.  Xã hội chủ nghĩa hay Cộng sản chủ nghĩa theo Tản Đà là một loại lý tưởng, gần giống chủ nghĩa cộng sản trong tiểu thuyết Utopia   của Thomas More.(3)
Người cộng sản lạnh lùng với Tản Đà vị họ theo Marx cực lực chỉ trích Utopia là  đường lối cộng sản không tưởng, cũng như xã hội chủ nghĩa của Phật, Khổng Tử là nói suông, không thực hành, cải cách triệt để, không bắn giết, bỏ tù, cướp tài sản nhà nước và nhân dân, không thành triệu phú tỷ phú dola, không bán nước cầu vinh thật là không hào hứng bằng chủ nghĩa búa liềm giết hàng trăm triệu người mà hàng tỷ người theo, trong đó có những trí tuệ đê nhất hành tinh như J.Paul Sarte, Albet Camus, Bertrand Russell, Althusser ,  Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường! Than ôi! Chân lý là gì?

CHÚ THÍCH
______

 (1).Lịch trình đảng Cộng sản Việt Nam có thể tóm tắt  như sau:
 -Năm 1929, Tạ Thu Thâu tham gia khuynh hướng chính trị Trotskyist tại Pháp. Năm 1930, Tạ Thu Thâu và các đồng chí bị trục xuất về nước vì tham gia vào cuộc biểu tình trước điện Elysée (dinh Tổng thống Pháp) để phản đối thực dân Pháp xử tử các chiến sĩ Việt Nam Quốc dân Đảng tham gia khởi nghĩa Yên Bái.Báo Phụ nữ tân văn 3 Tháng Bảy 1930 có bình luận sự kiện này: "Ngày 22 Mai, hồi ba giờ chiều, độ một trăm người thanh niên Annam biểu tình ở trước điện Elyése, lúc ấy chính là lúc quan Giám quấc đương nghị sự về cái án xử tử 39 nhà cách mạng Bắc kỳ...Truyền đơn của cộng sản Annam, đảng Trotsky...
-Năm 1931, Tạ Thu Thâu thành lập nhóm Trotskyist tại miền Nam, ảnh hưởng của nhóm Trotskyist nhanh chóng lan rộng
- Tại đại hội lần thứ nhất của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội vào đầu tháng 5 năm 1929 đã xảy ra sự bất đồng giữa các đoàn đại biểu xung quanh việc xúc tiến thành lập đảng cộng sản. Sau khi đề nghị giải tán Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên, thành lập đảng cộng sản bị bác bỏ, đoàn đại biểu Bắc kỳ (gồm Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự và Nguyễn Tuân) rút khỏi đại hội, bỏ về nước.Ngày 17 tháng 6 năm 1929 tại số nhà 312 Khâm Thiên, Hà Nội đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền bắc họp đại hội quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua tuyên ngôn, điều lệ của đảng, quyết định xuất bản báo Búa Liềm, cử ra ban chấp hành trung ương lâm thời của đảng gồm: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính, Nguyên Vǎn Tuân  (Kim Tôn). Tổ chức này phát triển ở Bắc kỳ và cử người vào Trung kỳ, Nam kỳ vận động thành lập đảng trong toàn thể Việt Nam.
-Khi hội nghị trung ương đảng cộng sản Đông Dương họp tại Sài Gòn ngày 12-3-1931, có lẽ Hồ Chió Minh giả mạo klênh Quốc tế thống nhất các đảng đêề cướp công sau đó thủ tiêu các lãnh tụ cộng sản để ông độc tôn, độc chiếm.
(2). Trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) , thi ca cộng sản xuất hiện . Có thật hay bịa?
-Thơ Tố Hữu cũng xuất hiện khoảng 1938 (Từ Ấy).
-Tiểu thuyết xã hội của Trương Tửu ra đời:: Thanh niên S.O.S (1937), Một chiến sĩ (1938), Khi chiếc yếm rơi xuống (1939), Khi người ta đói (1940), Một cổ đôi ba tròng (1940), Trái tim nổi loạn (1940), Đục nước béo cò (1940), Một kiếp đọa đày (1941),
-Tiểu thutyết xã hội của Nguyễn Đức Quỳnh:Thằng cu So (1941)Thằng Kình (1942)Thằng Phượng (1941)
(3). Utopia: tiểu thuyết của Thomas More (1478 - 1535), ông sinh tại Luân Đôn (Anh quốc), là một luật sư, nhà triết học xã hội, tác giả, chính khách và nhà nhân văn Phục hưng nổi tiếng người Anh. Ông là một cố vấn quan trọng cho Henry VIII của Anh và đảm nhận chức vụ Đại Chưởng ấn trong ba năm. Ông là người chống đối cuộc Cải cách Tin Lành, đặc biệt là Martin Luther và William Tyndale. Ông được tôn kính là một vị thánh trong Giáo hội Công giáo và trong Cộng đồng Anh giáo. Ông cũng được Liên Xô đề cao do quan điểm về tư hữu trong sách Utopia.
Ông tự rèn luyện trở thành một nhà trí thức xuất sắc. Ông làm tới chức tể tướng. Ông hi vọng sẽ tác động vào những chính sách lớn của nhà vua theo hướng nhân đạo. Nhưng ước muốn của ông do chế độ phong kiến độc tài đã trở thành đối lập với nhà vua .Ông bị quy tội phản quốc và bị bắt giam. Ông bị xử tử ngày 06/07/1535
Tác phẩm này mô tả là một hòn đảo biệt lập và không tưởng ở vùng biển Đại Tây Dương, trên hòn đảo này có một cuộc sống biệt lập với thế giới mà tồn tại một xã hội mơ ước, một nơi không có tư hữu, không phân chia giai cấp, giàu, nghèo, ai cũng lao động và ai cũng có cuộc sống hạnh phúc. Tư tưởng cơ bản nổi bật và có tính chất chủ đạo của More thông qua tác phẩm này là tư tưởng cho rằng, nguyên nhân sâu xa của mọi tệ nạn xã hội, của áp bức và bất công trong lòng xã hội tư bản là chế độ tư hữu. Ông cũng chỉ ra rằng, muốn xoá bỏ bất công, áp bức, xoá bỏ tình trạng phân hoá giàu nghèo, cần xoá bỏ chế độ tư hữu. Với quan điểm có tính chất căn bản này, ông đã được xếp vào một trong số các nhà tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của thế kỷ XVI.
 Utopia là một giấc mơ về một xã hội tương lai mà tác giả cho là hoàn hảo. Utopia là kết hợp tư tưởng xã hội của Plato, Aristote. Utopia đã mở đường cho một số tiểu thuyết và tư tưởng xã hội như sau:
+ Edward Bellamy's Looking Backward.
+ William Morris' News from Nowhere
+ Eric Frank Russell's book The Great Explosion (1963)
+ Robert A. Heinlein's The Moon Is a Harsh Mistress . . .
+John Donne (1572 –  1631) – nhà thơ Anh.
Tại Việt Nam, sau Tản Đà, Hoàng Cộng Khanh (1922-2010)  viết Trại Tân Bồi (1953) cũng theo đường lối Utopia.


Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét