Thoạt nhìn chính tôi cũng hơi lúng túng khi gặp Ariana Miyamoto. Cô cao và thật đẹp. Nhưng ý nghĩ đầu tiên hiện ra trong đầu khi tôi gặp người vừa được trao vương miện Hoa hậu Hoàn vũ Nhật Bản là cô ấy nhìn không có vẻ Nhật Bản.
Chỉ trong vòng hai năm ở đây tôi rõ ràng bị xâm nhập bởi nhiều định kiến địa phương về khái niệm "Nhật Bản" có nghĩa là gì.
Sự bối rối lúng túng của tôi chấm dứt ngy khi Ariana cất tiếng nói. Đột nhiên tất cả mọi thứ về cô ấy thể hiện rõ rằng cô là người Nhật, từ giọng nói mềm mại nhỏ nhẹ của cô, cử chỉ tinh tế từ bàn tay và nét biểu hiện kín đáo trên khuôn mặt.
Tất nhiên Ariana là người Nhật. Cô sinh ra tại Nhật Bản và đã sống ở đây cả cuộc đời mình. Cô biết rất ít về quê hương cha cô ở Arkansas, Hoa Kỳ. Nhưng với nhiều người Nhật, và tôi thực sự muốn nhận mạnh là nhiều người Nhật, thì Ariana Miyamoto không phải là người Nhật Bản. Dù sao thì cũng không hoàn toàn là người Nhật.
Tại Nhật Bản những người như Ariana được coi là một "hafu", lấy từ chữ tiếng Anh "half - một nửa". Với tôi từ này nghe như một sự xúc phạm. Nhưng khi tôi hỏi, Ariana đã làm tôi ngạc nhiên khi cô bảo vệ từ này.
"Nếu không có từ hafu này thì sẽ rất khó để mô tả tôi là ai, tôi là người gì ở Nhật Bản," cô nói.
"Nếu tôi nói tôi là 'người Nhật' thì câu trả lời sẽ là: "Không, bạn không thể là người Nhật'. Người ta sẽ không tin như vậy. Nhưng nếu tôi nói tôi là' hafu ', mọi người đồng ý. Không có một từ nào giống như từ hafu ngoài nước Nhật..., nhưng tôi nghĩ rằng chúng tôi cần nó ở đây. Để những đứa trẻ lai như chúng tôi sống ở Nhật Bản, thì từ đó là không thể thiếu và tôi đánh giá cao từ đó."
Tại Nhật Bản việc Ariana thắng trong cuộc thi sắc đẹp đã được tiếp đón một cách yên ắng tới kỳ lạ. Trong khi truyền thông quốc tế gõ cửa nhà cô mỗi ngày, thì truyền thông Nhật Bản phần lớn đã phớt lờ cô.
"Tôi cảm thấy tôi được quan tâm nhiều từ nước ngoài," cô nói.
"Tôi trả lời phỏng vấn với giới truyền thông nước ngoài nhiều hơn so với truyền thông Nhật Bản. Khi tôi đi đường, chẳng người Nhật nào bước tới hỏi tôi cả, nhưng tôi lại được rất nhiều khách du lịch không phải người Nhật chúc mừng."
Trên mạng xã hội phản ứng khá pha trộn, trong đó nhiều người Nhật bày tỏ ủng hộ và vui mừng trong khi những người khác lại không và thậm chí còn có thái độ gay gắt.
"Chọn một hafu là Hoa hậu Nhật Bản mà ổn à?" một người viết trên twitter.
"Nó khiến tôi không thoải mái khi nghĩ rằng cô ấy đại diện cho nước Nhật", một người khác viết.
Ariana nói từ 'hafu' là cần thiết để hiểu những người như cô
Ở nhiều nơi khác trên thế giới thì bản sắc không còn được xác định bởi bề ngoài của bạn nữa.
Có những người Anh da trắng, da đen, gốc Á và gốc Trung Quốc, cũng như có bất kỳ những loại người Mỹ khác nhau. Nhưng Nhật Bản vẫn bám víu vào một định nghĩa rất hẹp về những gì có nghĩa là "Nhật Bản".
Một phần vì đây vẫn là một xã hội vô cùng đồng nhất. Những người nhập cư chỉ chiếm một phần trăm dân số Nhật Bản, và hầu hết những người này đến từ Hàn Quốc và Trung Quốc.
Nhiều thế kỷ cô lập cũng đã khiến Nhật Bản thấm đẫm ý thức về sự tách biệt.
Nhiều người dân ở đây thực sự tin rằng Nhật Bản là duy nhất, thậm chí khác biệt cả về di truyền so với phần còn lại của thế giới.
Khi vợ tôi, một người Nhật, có thai, một trong những người bạn của cô ấy đã chúc mừng với dòng chữ: "Người Nhật chúng ta có thai với một người nước ngoài không phải là chuyện dễ". Tôi đã không biết nên cười hay nên khóc.
Tất nhiên điều bí ẩn này là hoàn toàn vô lý. Người Nhật là một sự pha trộn sắc tộc, kết quả của những cuộc di cư khác nhau qua hàng ngàn năm, từ bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc và Đông Nam Á. Nhưng điều bí ẩn đó lại bám rễ khá chắc và nó khiến sự khác biệt trở thành một khó khăn khi sống tại đây.
Hoa hậu Nhật Ariana Miyamoto cho biết cô đã gặp phải những bình luận ác ý sau khi cô được trao vương miện.
Lớn lên trong một thành phố nhỏ ở miền tây Nhật Bản, Ariana đã chính mình trải nghiệm điều đó. Người bạn tốt nhất ở trường của cô đã tự sát trong một phần vì anh ta không thể chịu được việc luôn bị đối xử như một người ngoại đạo.
"Chúng tôi thường nói rất nhiều về khó khăn vì là hafu," cô nói.
"Ba ngày trước khi qua đời, anh ấy muốn nói về lý do tại sao chúng tôi lại bị tách biệt so với những người khác .
"Anh thường nói anh cảm thấy rất khó sống. Anh không nói được tiếng Anh. Mọi người thường tự hỏi tại sao anh lại không nói được tiếng Anh mặc dù ngoại hình của anh như vậy – anh trông như người nước ngoài đối với họ."
Việc Ariana thắng trong cuộc thi sắc đẹp, có lẽ, nó là một dấu hiệu cho thấy Nhật Bản, cuối cùng và từ từ, đang bắt đầu thay đổi. Đó chắc chắn là điều cô hy vọng, và rằng danh tiếng mới của cô có thể giúp những trẻ hafu khác.
"Tôi nghĩ rằng người Nhật thích rập khuôn. Nhưng tôi cho rằng chúng ta cần phải thay đổi điều đó," cô nói.
"Sẽ ngày càng có nhiều các cuộc hôn nhân quốc tế và sẽ có nhiều trẻ em lai hơn trong tương lai. Vì vậy, tôi tin rằng chúng ta cần phải thay đổi cách suy nghĩ vì những đứa trẻ đó, vì tương lai của chúng."
Chắc chắn là cô đã nói đúng. Ariana Miyamoto là một phần của xu hướng ngày càng gia tăng ở Nhật Bản. Một trong 50 trẻ em sinh ra ở đây là trẻ em lai, và con số này là 20.000 trẻ em mỗi năm. Nhật Bản đang thay đổi. Nay liệu nước Nhật sẽ phản ứng thế nào nếu Ariana Miyamoto nâng vương miện Hoa hậu Hoàn vũ thế giới?
Một tiệm phở ở Hà Nội, ảnh minh họa chụp trước đây.
AFP
Văn hóa ẩm thực Việt Nam có một món ăn đã theo chân người Việt trên những chặng đường di cư và sau đó di tản tứ xứ đó là Phở. Trong chương trình Văn hóa nghệ thuật Mặc Lâm giới thiệu loạt bài Những cuộc hành trình của Phở để quý vị theo dõi những gì mà món ăn này trải qua. Bài đầu tiên là Phở trong những ngày đầu tại miền Bắc sau đây.
Khi nói tới những ngày đầu tiên hình thành món phở nhiều người vẫn cho rằng, phở có nguồn gốc từ Quảng Đông theo chân những gánh “ngưu nhục phấn” của người tàu bán rong trên phố phường Hà Nội. Cũng có giả thiết là phở xuất xứ từ Nam Định, nơi có nhiều nhà máy và công nhân làm việc theo ca kíp vào khoảng những năm 30, 40 của thế kỷ trước.
Cũng có tài liệu cho rằng phở đã xuất hiện trước đó rất lâu, vào năm 1908 hay 1909 khi những chuyến tàu thủy chạy dọc sông từ Hà Nội đi Hải Phòng, Nam Định. Người dân nghèo bám vào những bến sông bán các món ăn đỡ dạ cho khách đi tàu, chờ tàu, trong đó có món “xáo trâu”, tức thịt trâu nấu xáo ăn chung với bún. Từ xáo trâu ăn với bún dần dần người bán chuyển sang nấu bằng xương bò và ăn với bánh phở, cũng là một loại sợi làm từ bột gạo. Có lẽ các gánh phở ra đời từ đó và chậm chạp tiến vào Hà Nội, hình thành một đội quân bán phở rong trên các nẻo đường của ba mươi sáu phố phường.
Những ngày đầu của Phở
Phở không phải là món ăn truyền thống Việt Nam, ngày xưa ta không ăn phở mà nó chỉ phát triển từ năm 1930 đầu thề kỷ trước nó phát triển với các đô thị chủ yếu là tại miền Bắc. Nó phát triển với tầng lớp trí thức thành thị đại đa số thời đó là tiểu tư sản nhưng cũng không nhiều lắm đâu. -Đặng Tiến
Phở lên ngôi và bỗng trở nên lấp lánh trong thực đơn các món ăn Việt Nam có lẽ từ bài viết của hai nhà văn tiền bối là Vũ Bằng và Nguyễn Tuân, hai cây đại thụ văn hóa, đã giúp cho món ăn dân giã này trở thành báu vật trong nếp ẩm thực của người Việt.
Theo nhà phê bình văn học Đặng Tiến thì phở xuất hiện trong văn chương từ rất sớm. Những tác phẩm viết về phở lôi cuốn người đọc từ thập niên 30 mà lúc ấy Nguyễn Công Hoan cho rằng phở vốn có tên là cao lầu khi ông dạy học tại Lào Cai:
“Phở không phải là món ăn truyền thống Việt Nam, ngày xưa ta không ăn phở mà nó chỉ phát triển từ năm 1930 đầu thề kỷ trước nó phát triển với các đô thị chủ yếu là tại miền Bắc. Nó phát triển với tầng lớp trí thức thành thị đại đa số thời đó là tiểu tư sản nhưng cũng không nhiều lắm đâu.
Ví dụ như ông Nguyễn Công Hoan khoảng năm 1930 dạy học ở Lào Cay có biên phở và gọi nó là món cao lầu. Ông Tô Hoài vào khoảng 1935-40 nói rằng ở Hà Nội không có bán phở, ở chợ quê không có món phở chỉ có cháo là cùng thôi. Phở phát triển ở thành phố Hà Nội từ 1930 và nó thịnh hành khoảng 1940 vào thời mà ông Thạch Lam viết Hà nội 36 phố phường và có những trang về phở rất hay. Món phở nó gắn liền với ăn chương thời đó và sau đó nó tiếp tục nổi tiếng với bài “Phở” của ông Nguyễn Tuân. Bài Phở của ông Nguyễn Tuân ngoài chuyện món ăn phở ra nó còn tính cách chính trị và sau cái bài đó đã bị chính quyền Hà Nội lên án thành thử món phở trở thành một đầu đề thời thượng và người viết nhiều viết hay về phở là ông Vũ Bằng.
Ông Vũ Bằng có thể nói là người ăn phở sành sỏi vì ông sống ở Hà Nội lúc thịnh thời của phở. Ông Nguyễn Tuân thì viết văn hay nhưng không phải là người sành ăn phở. Đọc bài Phở của Nguyễn Tuân thì thấy ông lý luận hay, tế nhị thâm trầm nhưng vẫn không phải là người sành ăn phở, người sành ăn phở phải là Vũ Bằng.”
Phở xuất hiện đậm mùi… chinh chiến
Phở bò Kobe tại một tiệm phở ở Hà Nội, ảnh chụp trước đây.
Gần 40 năm sau, từ các gánh “xáo trâu” dọc theo sông Hồng, khi thịt bò theo chân quân đội viễn chinh Pháp vào Hà Nội mới là lúc phở có cơ hội tiến lên ngang hàng với các món cao lương mỹ vị. Nhà phê bình văn học Đặng Tiến lý giải tại sao Vũ Bằng ăn phở lại khen ngon, và tinh tế nếm chén nước dùng bằng ngôn từ của một người yêu phở hết lòng:
“Vũ Bằng ăn phở tại Hà Nội vào năm 1950 là lúc thịnh thời của phở. Phở chủ yếu nấu bằng thịt bò mà năm 1950 là thời quân đội viễn chinh Pháp tràn ngập mặt trận Bắc bộ người Pháp ăn thịt bò nhiều có thịt bò chở từ Pháp sang nữa và họ chỉ ăn phần mềm thôi, có thể nói là phần ưu hạng của con bò còn phần thứ hạng như xương, gầu, nạm thì họ không ăn. Thời đó người Việt Nam riêng tại Hà Nội họ thầu hết phần thứ cấp của con bò do đó phở nhiều xương nhiều thịt làm phở ngon. Lúc thịnh thịnh thời của Phở, ngon nhất trong lịch sử của phở là phở Hà Nội năm 1950 nói như vậy để thấy rằng phở nó phát triển với tình hình của đất nước.”
Nhà văn Trương Quý tuy còn trẻ nhưng đã có nhiều bài viết về phở. Trong tập tản văn “Ăn phở rất khó thấy ngon” anh đã phân tích nhiều khía cạnh làm cho phở trở thành món ăn được xem là đặc trưng của Hà Nội này:
“Phở là một hình thức ẩm thực mà sáng tạo nó có khuôn khổ gọi là ý thức tương đối phổ quát nhưng mà trong đấy nó có khoảng biên độ rất rộng để người nấu họ có thể điều chỉnh được. Có cái hay trong món này mà nó trở thành kinh điển. Phở xuất hiện chưa phải là quá lâu khoảng đầu thế kỷ 20 như trong thơ Tú Xương đã có bài về phở là dấu ấn đầu tiên của phở trong văn chương của người Việt.”
Lúc thịnh thịnh thời của Phở, ngon nhất trong lịch sử của phở là phở Hà Nội năm 1950 nói như vậy để thấy rằng phở nó phát triển với tình hình của đất nước. -Vũ Bằng
Trước những năm 1950, trong khi Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Thạch Lam thậm chí Tản Đà hay Tú Xương ra sức tôn vinh cho món ăn lạ lùng này thì từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam phở hầu như không có một chút tiếng tăm gì.
Người miền Trung gắn bó với các loại bánh tráng, rồi từ bánh tráng tươi cắt thành sợi lớn để có một tô mì Quảng hay cao lầu. Xuôi về phương Nam người ta theo chiếc xe mì hoành thánh và lâu lâu tiếng mì gõ đánh thức vị giác của người nghèo trong xóm vắng. Người Sài Gòn xem ra mặn mà với món nước như các loại bún đi cùng nước lèo chế biến từ các loại thực phẩm đánh bắt ở kinh rạch trước nhà hay ngay trong ruộng lúa của mình. Hầu hết các chợ lớn nhỏ đều có các hàng bún với nước lèo góp mặt làm nên văn hóa ẩm thực có hình dạng của ruộng đồng sông nước.
Tuy nhiên người miền Nam không chăm chú vào cái tinh túy của một nồi nước lèo cho các loại bún, còn người miền Bắc lại dốc hết sự tinh tế vào nồi nước dùng để dần dần biến một món ăn đơn giản trở nên cầu kỳ như món phở. Xương bò phải lựa từ xương ống và cùng lắm là thêm một ít xương vai lọc hết thịt nấu sạch và đun lửa riu trong nhiều giờ, sau đó mới nói tới chuyện gia vị nêm nếm là một công đoạn chứa đầy bí quyết và kinh nghiệm riêng. Thời gian trôi qua món nước dùng của phở Hà Nội có cơ hội được nhiều khách sành ăn thử qua rồi tự nguyện làm tín đồ của loại thức ăn vừa bình dân vừa kiểu cách này.
Mang phở theo hành trang di tản
Tiệm phở của bà Trần Tiếu ở tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ
Có những người mang theo cái hương vị ấy vài chục năm sau khi từ miền Bắc di cư vào Nam rồi lại mang hương vị của phở một lần nữa trong hành trang di tản... Cũng trong chiếc rương ký ức ấy, những năm 80 mùi phở tiếp tục đeo bám nhiều người sang tới Mỹ và hàng chục nước khác khiến họ quay quắt lục tìm cái mùi quen thuộc mà xa vời ấy mỗi khi vào một quán phở Việt trên đất khách quê người.
Trong một lần nhà văn Mai Thảo ghé tiểu bang Oregon, tại một tiệm phở khá nổi tiếng khi tô phở được mang lên tận bàn ông hỏi người chủ: Cái gì đây, phở à? Rồi ông gác đũa nhìn ra trời mùa thu bên ngoài.
Đối với tác giả “Đêm giã từ Hà Nội”, Mai Thảo luôn tâm niệm rằng một tô phở đáng gọi là phở thì mùi của nó phải tới trước khi tô phở xuất hiện. Mùi phở như dấu triện son chứng nhận hồn của một “địa chỉ phở” góp phần nuôi dưỡng lòng yêu quê Hà Nội, nơi ông và bạn bè thân thuộc cùng với gần một triệu đồng bào phải lìa xa, trong đó lắm người không có gì mang theo ngoại trừ chút nắm níu rưng rưng hương vị của phở mà họ từng trải nghiệm.
Du Tử Lê, một người bạn vong niên của Mai Thảo theo ông từ những lúc còn ở Sài Gòn cho tới khi sang Mỹ nhận xét về sự khó khăn của Mai Thảo khi nói tới phở:
“Anh Mai Thảo khi qua đây thì anh ấy thuộc thế hệ trước 1930 ở Việt Nam cho nên cảm tưởng của anh ấy với phở của hải ngoại gần như là nó không còn liên hệ bao nhiêu với phở của Việt Nam trước đây thời anh còn sống ở Hà Nội. Giống như một sự thất vọng, không hài lòng, đó là quan điểm của Mai Thảo.”
Nhà phê bình văn học Đặng Tiến nhắc lại một khoảng thời gian ngắn trước khi cuộc di cư của đồng bào miền Bắc vào năm 1954, ông nói:
“Thời đó ở miền Nam ít người ăn phở lắm. Kinh đô của Việt Nam là Huế cũng chỉ có một tiệm phở gọi là phở Thăng Long ở đường Phan Bội Châu và Gia Long bây giờ. Ở Đà Nẵng không có tiệm phở chỉ có phở gánh thôi còn Sài Gòn thì có vài ba tiệm gì đó mà tôi không biết. Cho đến cuộc di cư năm 1954 thì phở mới phát triển mạnh vào miền Nam chủ yếu theo đoàn di cư không những vào Huế Đà Nẵng Sài Gòn mà còn lên những vùng xa xôi. Ông Võ Phiến có nói rằng cái thời đó ở Gia Rai hay mấy vùng định cư của người miền Bắc đã tạo ra được những món phở ngon. Thời kỳ đó tại Đà Nẵng mới có một tiệm phở rồi Sài Gòn với tiệm phở 79 rồi Phờ Tàu Bay thu hút được nhiều thực khách.”
Năm 1954 cùng với những nỗi niềm xa quê của đồng bào miền Bắc phở lẫm đẫm theo chân họ làm cuộc ra đi không hẹn ngày về. Phở không chen lấn hay dành một chỗ trên những chiếc bàn con của miền Nam, nó rụt rè và chậm rãi tự giới thiệu mình với một cộng đồng mới dang tay đón nó mà không ngờ rằng từ đó miền Nam bắt đầu tạo tiếng vang về phở với cung cách của người phương Nam, hào phóng và đầy sáng tạo.
Vừa rồi là Phở trong những ngày đầu tiên, trong kỳ tới Mặc Lâm sẽ mời quý vị ngược lại thời gian về thời kỳ mà đồng bào miền Bắc di cư vào Nam đã đem theo phở tới Sài Gòn như thế nào, mời qúy vị đón theo dõi.
Nhà để tro cốt Ruriden thuộc ngôi đền Koukoko-ji, Nhật Bản, là nơi hết sức hiện đại đang lưu giữ tro cốt của 2046 người đã mất.
Những bức tường ở nơi đây được ngăn thành rất nhiều ngăn, mỗi ngăn có đặt một bức tượng Phật bằng pha lê và được chiếu sáng bằng đèn LED nhiều màu. Đằng sau mỗi bức tượng là hũ đựng tro cốt của người đã khuất. Như có thể thấy trong hình ảnh, màu sắc từ mỗi bức tượng được điều khiển một cách có chủ đích, tạo nên "bức tranh" đầy màu sắc trên tường.
Khi thân nhân của người đã khuất vào viếng, họ sẽ mang IC card chứa mã PIN để nhập vào hệ thống, khi đó bức tượng tại vị trí người thân của họ sẽ đổi màu nổi bật lên để dễ dàng nhận ra. Những hũ chứa tro cốt này sẽ được lưu trữ tại đây trong 33 năm trước khi được chôn xuống dưới nền của ngôi nhà. Trước giờ, mô hình nhà để tro cốt được xem là cách tiện lợi và hiện đại để lưu trữ di thể của người đã mất. Tuy nhiên, cách làm của ngôi đền Koukoko-ji còn độc đáo và đầy tính công nghệ hơn rất nhiều.
Yajima Taijun, người trụ trì ngôi đền Koukokuji
đang giới thiệu những ngăn để tro cốt đằng sau bức tường tượng pha lê.
Nhật là đất nước của những sản phẩm phát minh độc đáo và mặt khác, họ cũng đang đối mặt với tình hình dân số già đi một cách nhanh chóng. Theo thống kê, 1/4 cư dân tại Nhật có độ tuổi trên 65 và dân số 127 triệu người được dự đoán là sẽ giảm khoảng 30 triệu trong vòng 50 năm tới.
Những ‘ổ khoá tình yêu’ ở Paris: Rác hay Nghệ thuật?
Truyền thống các cặp tình nhân tới Paris - gài ổ khoá vào những cây cầu rồi ném chìa khoá xuống dòng sông thay cho lời ước thề sẽ yêu nhau mãi mãi - bị đả kích, khi số lượng các ổ khoá ngày càng trĩu nặng, đe doạ làm sập các cây cầu bắc qua sông Seine.
Paris thủ đô nước Pháp, thường được biết đến dưới tên gọi mỹ miều chẳng hạn như Kinh Đô Ánh sáng, là điểm đến sáng giá đối với khách du lịch khắp nơi, Giòng sông Seine chảy qua thành phố là nơi hò hẹn lý tưởng của những cặp tình nhân. Bắc qua Sông Seine là những cây cầu, mỗi chiếc cầu là một công trình kiến trúc có nét độc đáo riêng, tất cả đều đóng góp và tô đậm thêm nét đẹp và sức cuốn hút của thành phố Paris. Một trong những cây cầu bắc qua sông Seine là Pont des Arts – Cầu của những Bộ môn Nghệ thuật. Chính tại nơi này đã xuất hiện một truyền thống được duy trì nhiều năm khi những cặp tình nhân đến gài vào hai bên thành cầu những ‘ổ khoá tình yêu’ trên có ghi thông điệp về cuộc tình, rồi ném chìa khoá xuống dòng sông. Thoạt tiên được coi là một truyền thống đáng yêu, biểu tượng cho tình yêu bất diệt, nhưng qua năm tháng, cây cầu đã bắt đầu trĩu dưới sức nặng ước lượng 45 tấn của gần một triệu ổ khoá bằng kim loại, mà giới ủng hộ cho là trông giống như một tác phẩm điêu khắc đương đại, trong khi giới chỉ trích mô tả là một thứ ung nhọt bằng kim loại không ngừng lây lan, phá hoại nét đẹp kiến trúc của cây cầu và mỹ quan thành phố. 'Rác rưởi' Đối với những người chỉ trích, các ổ khoá tình yêu là “rác rưởi làm ô nhiễm thành phố”. Một trong những người chỉ trích là Lisa Taylor Huff, một nhà văn người Mỹ sinh sống ở Paris. Lisa là người đã cùng với một người bạn, phát động một phong trào trên Facebook để vận động tháo gỡ những cái gọi là ‘ổ khoá tình yêu’. Bà Huff nói Paris đã hy sinh mỹ quan thành phố để phát triển du lịch. Mặc dù cũng có những cặp tình nhân người Pháp để lại kỷ vật trên Cầu Pont des Arts, nhưng theo tờ New York Times, đa số cư dân Paris đều chống đối việc này, và cho rằng những ổ khoá đó đã phá hoại vẻ đẹp của một trong những chiếc cầu đẹp nhất Paris. Những người khác có quan điểm trung hoà hơn. Một nghệ sĩ người Bỉ, Marianne Truffine, 49 tuổi, đang ở thăm Paris với mẹ và con gái nói: “những ổ khoá không làm cho cây cầu đẹp hơn, nhưng mặt khác, chúng là bằng chứng của tình yêu, và tất cả những bằng chứng tình yêu đều đẹp.”
Đối với những người khác, trung tâm thành phố Paris, kể cả cầu Pont des Arts đã trở thành một sân khấu.
x
Đối với những người khác, trung tâm thành phố Paris, kể cả cầu Pont des Arts đã trở thành một sân khấu.
Đối với những người khác, trung tâm thành phố Paris, kể cả cầu Pont des Arts đã trở thành một sân khấu. Những cặp tình nhân sắp cưới ở các nước lân cận dùng Paris và Cầu Pont des Arts làm phông cho những ảnh kỷ niệm chụp trước lễ cưới. Một cặp đến từ London gài ổ khoá vào vách cầu trước ống kính máy hình. Cặp đôi này đã mướn một nhà nhiếp ảnh chuyên chụp hình cưới đi theo họ suốt một ngày để thu lại những hình ảnh đẹp tại Paris, sẽ được dùng cho album kỷ niệm ngày cưới sắp tới. Cảnh sát theo dõi cảnh này, không phải để bắt giữ cặp tình nhân, mà để bắt những người bán ổ khoá, bởi vì luật hiện hành nghiêm cấm hoạt động bán ổ khoá trên Cầu Pont des Arts hoặc các địa điểm kế cận. Nhưng khi chiều tàn, cảnh sát hoàn tất ca trực, thì từ bóng tối người ta lại thấy xuất hiện những người rao bán những ổ khoá mới, lớn nhỏ đủ loại với giá biểu từ 5 tới 10 euro. Cô Lisa Anselmo tự coi mình là một cư dân bán thời của Paris, nói rằng những ổ khoá ấy là một sự nhượng bộ để thu hút và làm vừa lòng du khách, nhưng lại gây hại cho thành phố. Theo cô, Hội đồng thành phố nên tháo dỡ các ổ khoá và tìm một địa điểm thay thế. 'Bằng chứng tình yêu' Paris không phải là thành phố duy nhất phải đối phó với thách thức này. Moscova giải quyết vấn đề bằng cách dựng lên những cây bằng kim loại để những cặp tình nhân treo ‘ổ khoá tình yêu’. London và Rome cũng phải đối phó với thách thức tương tự, nhưng không ở nơi nào vấn đề lại nghiêm trọng như ở Paris, với số lượng ổ khoá không sao có thể đếm xuể. Thành phố Rome thường xuyên vớt những đồng bạc cắc do người qua lại ném vào Giếng Travi để lấy hên. Những xu lẻ ấy mang về cho thành phố 1 triệu 400 ngàn đô la một năm, số tiền này được trao cho Caritas, tổ chức từ thiện Công giáo. Nhưng giải quyết nạn ổ khoá tình yêu đang đe doạ làm sập những cây cầu lịch sử ở Paris không đơn giản như thế. Các ổ khoá được dùng làm bằng chứng tình yêu bắt đầu xuất hiện ở Paris vào năm 2008, mặc dù truyền thống ấy khởi sự cách đây gần100 năm, xuất xứ từ một chuyện tình buồn của Serbia trong Thế Chiến thứ Nhất, một mối tình dang dở giữa một cô giáo trẻ với một quân nhân đang chuẩn bị ra chiến trường. Serbia thất trận, người lính ở lại Hy Lạp nơi anh trú đóng, rồi lập gia đình với một cô gái địa phương và không bao giờ trở về quê cũ. Cô giáo buồn qua đời với trái tim tan vỡ, các thiếu nữ trong thị trấn muốn tránh hoàn cảnh bi đát của cô giáo, khởi sự gài những ổ khoá tình yêu lên một cây cầu trong thành phố. Chuyện tình buồn lan truyền từ Serbia nhưng dần dà chìm vào quên lãng. Nửa sau của thế kỷ 20 chuyện tình buồn của cô giáo trẻ hồi sinh trong một thi phẩm mang tên “Câu Kinh Tình yêu”. Tác giả là Desanka Maksimovic, nữ thi sĩ nổi danh nhất của Serbia…
Theo ước lượng, con số các ổ khoá treo trên Cầu Pont des Arts đã vượt quá 700,000 chiếc.
x
Theo ước lượng, con số các ổ khoá treo trên Cầu Pont des Arts đã vượt quá 700,000 chiếc.
Truyền thống các cặp tình nhân tới Paris -gài ổ khoá vào những cây cầu rồi ném chìa khoá xuống dòng sông thay cho lời ước thề sẽ yêu nhau mãi mãi- bị đả kích, khi số lượng các ổ khoá ngày càng trĩu nặng, đe doạ làm sập các cây cầu bắc qua sông Seine. Theo ước lượng, con số các ổ khoá treo trên Cầu Pont des Arts đã vượt quá 700,000 chiếc. Thứ Sáu vừa qua, các giới chức thành phố loan báo bắt đầu tháo gỡ các ổ khoá, và thay thế các thanh sắt bằng những tấm kính dầy, để ngăn không cho các cặp tình nhân gài các ổ khoá mới. 'Thành phố tình yêu' Được thiết kế và khởi công từ những năm đầu của thế kỷ 19 và xây lại vào năm 1980 như phiên bản của chiếc cầu nguyên thuỷ, cầu Pont des Arts là tâm điểm của trận chiến giữa một bên là những người có óc thẩm mỹ truyền thống và Hội bảo vệ các di tích lịch sử, và một đàng là một thế hệ dân mạng thời đại muốn thể hiện tình cảm riêng tư một cách công khai qua các phương tiện như Facebook và Instagram. Trận chiến đó diễn ra trên phông là một thành phố Paris hoa lệ, từ lâu đã là biểu tượng của tình yêu lãng mạn đối với cư dân địa phương cũng như với du khách quốc tế. Pont des Arts không phải là chiếc cầu duy nhất ở Paris thu hút những cặp tình nhân muốn để lại kỷ vật tại ‘thành phố của tình yêu’. Các cặp tình nhân còn gài ổ khoá tại 2 cây cầu khác là Pont de l’Archevêché và Passerelle Simone de Beauvoir, gây ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa Hội bảo trì Di tích Lịch sử và các tổ chức du lịch ở Pháp, khiến cho tân Thị trưởng Anne Hidalgo phải can thiệp. Trong một thông cáo công bố sau khi Hội đồng thành phố quyết định tháo gỡ các ổ khoá, Hội đồng thành phố Paris nói: “Paris là thủ đô của tình yêu, chúng tôi rất tự hào về điều đó nhưng có rất nhiều cách để biểu lộ tình yêu, ngoài những ổ khoá”. Với quyết định đó, hình ảnh các ổ khoá trên Cầu Pont des Arts, nhiều chiếc có khắc tên của cặp tình nhân, dần dà sẽ chỉ còn là kỷ niệm, xuất hiện đâu đó trong những bộ phim quay ở Paris, để lại niềm nuối tiếc khôn nguôi cho những cặp tình nhân đã từng ghé ngang qua Paris và bỏ lại thành phố hoa lệ này một kỷ vật về mối tình đẹp của họ.
Ra mắt siêu xe có thể chạy 100 năm không cần đổ xăng
Với động cơ chạy bằng Thori (một nguyên tố kim loại phóng xạ), chiếc xe của bạn sẽ không bao giờ cần phải bơm xăng, vì Thori có thể giải phóng một nguồn năng lượng khổng lồ trong khoảng thời gian lâu hơn cả một đời người.
Đó là lý do tại sao công ty Laser Power Systems quyết định thử nghiệm chế tạo một động cơ xe hơi sử dụng nhiên liệu Thori. Cơ chế hoạt động loại động cơ này sẽ tương tự một nhà máy điện hạt nhân: Thori phát xạ và giải phóng nhiệt năng đun sôi nước, qua đó làm quay các tuốc bin điện để nạo năng lượng cho động cơ.
Siêu xe mới chạy bằng động cơ Thori sẽ không cần đổ xăng trong 100 năm (Ảnh: Jews News)
Thori là một trong những kim loại nặng nhất và giải phóng năng lượng lớn nhất hành tinh. Cùng một thể tích chất rắn, Thori giải phóng ra nguồn năng lượng gấp 20 triệu lần so với than đá, biến nó trở thành một nguồn năng lượng lý trưởng trong tương lai.
Mặc dù vậy, Tiến sĩ Charles Stevens, CEO của Laser Power Systems nói động cơ Thori sẽ chỉ phổ biến trong tương lai... xa: "Các nhà sản xuất xe hơi sẽ không muốn sử dụng ngay loại động cơ này, và ứng dụng động cơ Thori vào ô tô cũng không phải mối quan tâm chính của chúng tôi".
Ông Stevens lý giải hiện ngành công nghiệp ô tô trên thế giới vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào động cơ chạy xăng, do đó phải mất ít nhất 20 năm nữa để công nghệ sử dụng động cơ Thori đi vào phổ biến và bắt đầu làm thay đổi tư duy của những nhà sản xuất động cơ.
Trong tương lai, ông Stevens tin tưởng động cơ Thori sẽ chỉ nhỏ "bằng một chiếc máy điều hoà", qua đó cung cấp năng lượng nhiều và rẻ hơn trước đây cho những nhà hàng, khách sạn, thậm chí là cả một thị trấn mà không cần đến mạng lưới điện.
Với cơ chế vận hành tương tự một nhà máy điện hạt nhân, ông Stevens hiểu nhiều người sẽ lo ngại hiện tượng rò rỉ phóng xạ nên đã kịp thời trấn an: "Quá trình phóng xạ sẽ được ngăn khỏi rò rỉ bên ngoài bởi các lá nhôm, do đó nó an toàn hơn cả bức xạ chụp X quang".
Hàng ngàn người di cư từ châu Phi và Trung Đông đã cố đến được bờ biển của châu Âu mỗi năm, nhiều người đã phải trải qua một hành trình nguy hiểm trên biển Địa Trung Hải.
Hơn 1800 người chết trên chặng đường này cho đến nay trong năm 2015 - tăng gấp 20 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Bốn gia đình và cá nhân những người đã thực hiện chuyến đi dài trên biển và đất liền kể lại lý do tại sao họ quyết định rời bỏ nhà cửa ra đi và những gì họ hy vọng ở một tương lai tại châu Âu.
Staf Mustapha, 34 tuổi: đi từ Ghana đến Macedonia
Vượt một chặng đường: khoảng 7.000km
Thời gian: mất 20 tháng
Tuyến đường đã đi qua: Ghana - Burkina Faso - Niger - Libya - Thổ Nhĩ Kỳ - Hy Lạp - Macedonia
Staf và một nhóm người Ghana mà ông đã gặp trên đường đã trải qua nhiều tháng tìm cách vào châu Âu. Họ bắt đầu hành trình của mình trong năm 2013 và một số người trong số họ đã chết do điều kiện khắc nghiệt của vùng sa mạc ở Niger và Chad. Nếu nguồn thức ăn hay nước uống cạn kiệt dần, những người khác đều miễn cưỡng không muốn chia sẻ vì lo cho sự sống còn của chính họ. Điều này có nghĩa là sẽ phải chứng kiến bạn bè của mình chết, Staf nói. "Quý vị không thể làm bất cứ điều gì," ông nói, "bởi vì nếu bạn tìm cách cứu họ, bạn đặt mình vào tình thế nguy hiểm và bạn cũng sẽ chết. Nó là như vậy đó. "Hầu hết bạn bè của chúng tôi chết trên sa mạc." Staf đã đi qua nhiều nước trên đường tới châu Âu Staf và Ali, bạn của ông, kể sau khi đến bờ biển Libya, họ đã đi đến Thổ Nhĩ Kỳ trên một "chiếc thuyền" nhỏ làm bằng cao su với 50 người khác. Ali đã trả cho những kẻ đưa lậu người 700 euro cho chuyến vượt biển đó, nhưng ông nói những người khác còn trả nhiều tiền hơn. Không có hoa tiêu và người lái thuyền, những người di cư bị bỏ mặc tự xoay xỏa với con thuyền và phó thác cho biển cả. "Nó thật căng thẳng," Staf nói. "Chuyến đi vô cùng nguy hiểm và có một số người Libya đã đi trước chúng tôi -. Tất cả bọn họ đều đã chết." Staf Mustapha (ngoài cùng bên trái) và các bạn anh trong đó có Ali (ở giữa) Những người khác cũng đã kết thúc cuộc đời mình bằng cách nhảy xuống biển, Ali nói. "Họ nói rằng họ không thể tiếp tục. Họ nói, 'Chúng tôi đã chịu đựng quá nhiều." Sau khi thoát nạn và tới dược bờ biển Hy Lạp, Staf tới Macedonia, nhưng nay nằm trong tay một băng đảng buôn lậu người, những người đòi tiền mặt mới thả ông. Ông nói rằng điều kiện sống thật nghèo nàn, nhiều người di cư ngủ trong những căn phòng không có ánh sáng và không có điện.
Ahmed, Latifah và ba con trai của họ: đi từ Syria đến Đức
Vượt một chặng đường: chừng 2.800km
Thời gian: hai tháng
Tuyến đường đã đi qua: Syria - Hy Lạp - Macedonia - Serbia - Hungary - Đức
Latifah cùng chồng là Ahmed và ba con trai nhỏ họ, Karim, 12 tuổi, Hamza, bảy tuổi, và Adam, hai tuổi, bỏ chạy khỏi Syria, đất nước đang bị chiến tranh tàn phá, vào tháng Tư năm nay để tìm kiếm một cuộc sống mới ở châu Âu. Gia đình bà xuất phát từ Deraa, thuộc ở miền nam Syria, mới tới được Đức sau khi bôn ba trên đường trong nhiều tháng trời. Chuyến đi của họ đã đưa họ qua các đường hầm và trên hai chặng đi thuyền qua Địa Trung Hải – chặng đầu tiên đã kết thúc trong thảm họa. Latifah nhớ lại gia đình bà đã bị sốc khi phát hiện chiếc thuyền đầu tiên sẽ đưa họ đến đảo Leros của Hy Lạp chỉ dài 6m và được làm bằng cao su. "Chúng tôi có 40 người cùng với hành lý," bà nói. "Ngay sau khi chúng tôi lên thuyền, chúng tôi biết là nó sẽ chìm." Gia đình Ahmed và Latifah đã ghi hành trình của họ qua những bức ảnh Như họ dự đoán, chiếc thuyền đã có bị trục trặc ngoài khơi bờ biển Hy Lạp và những người di cư buộc phải gọi điện cho lực lượng tuần duyên từ điện thoại di động để xin được giúp đỡ. "Chúng tôi ném hành lý ra khỏi thuyền và nhảy trong nước và đợi trong hai tiếng dưới biển," bà nói. Cuối cùng, cả tàu tuần duyên của Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp đã đến cứu trợ, nhưng tàu Thổ Nhĩ Kỳ trước và đã đưa họ trở lại bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ. "Đó là giai đoạn khó khăn nhất," Latifah nói, cố kìm những giọt nước mắt. "Chúng tôi ướt sũng và lạnh cóng mà không hề có mảnh chăn nào." Bất chấp những trải nghiệm đó, gia đình Latifha vẫn tìm cách vượt biển một lần nữa, cố đến bằng được châu Âu. Lần thứ hai này đã thành công và họ đăng ký với chính quyền ở Hy Lạp. Sau khi tới thủ đô Athens, họ đi tiếp qua Macedonia rồi Serbia và vào Đức.
Om Motasem và các con gái: đi từ Syria đến Đức
Vượt một chặng đường: chừng 5.700km
Thời gian: hai năm
Tuyến đường đã đi qua: Syria - Ai Cập - Ý - Pháp - Đức
Om Motasem trốn chạy đất nước quê hương Syria của bà vì cuộc nội chiến đang bùng nổ tại đây. Bà sống với chồng, ông Abu Nimr, 42 tuổi, vợ hai của ông, 15 người con và người mẹ già của ông Abu Nimr tại vùng nông thôn gần thủ đô Syria Damascus. Nhưng khi gia đình họ bị mất nhà cửa và cơ sở kinh doanh của họ do tình trạng bạo động, những người con trai lớn của họ bắt đầu bỏ chạy sang Bỉ và Thổ Nhĩ Kỳ. Khi tình hình trở nên tồi tệ đi, tháng 7 năm 2013 Abu Nimr và Om Motasem đã quyết định rời bỏ quê hương để tới Alexandria thành phố ven biển Ai Cập an toàn hơn. Họ đã thực hiện một hành trình cùng với người mẹ già của Abu Nimr, sáu con gái và hai con trai út của họ. Nhưng, một khi tới được Ai Cập, thì để tồn tại là cả một cuộc đấu tranh, và sau khi một người con trai lớn đi châu Âu và định cư ở Berne, Đức, thì Om Motasem quyết định đi theo cùng với hai cô con gái nhỏ 11 và 16 tuổi của bà. Ba người đã phải chịu đựng một chuyến đi ba ngày vượt Địa Trung Hải đến đảo Lampedusa của Ý. "Chúng tôi đi tàu vào ban đêm, và trên tàu có cả trẻ em và phụ nữ," bà Om Motasem nói. "Chúng tôi đồng ý với những kẻ đưa lậu người là số lượng không nên quá 200 người. Nhưng khi đến thuyền, con số lượng người là khủng khiếp: Không dưới 500 người. "Chúng tôi quá khiếp sợ. Thủy triều rất cao. Đó là một hành trình kinh hoàng. Tôi không muốn bất cứ ai phải trải qua như vậy." Trẻ con bị chia lìa và phải qua những ngày tháng sống xa nhau Ông Abu Nimr, vẫn ở lại Alexandria, kể ông "gần như bị mất trí" vì lo lắng cho sự an toàn của gia đình ông khi họ vượt biển. Ông đã ở ngoài bờ biển suốt ba ngày trời cho đến khi biết vợ con ông được an toàn. Nay, ông hy vọng sẽ theo vợ và các con gái, những người đã đến được Đức và đang cố gắng xây dựng một cuộc sống mới.
Omar Gassama, 18 tuổi: đi từ Gambia đến Ý
Vượt một chặng đường: chừng 4.200km
Thời gian: 17 tháng
Tuyến đường đã đi qua: Gambia - Senegal - Mali - Burkina Faso - Niger - Libya - Ý
Chàng thanh niên Omar, người gốc Senegal nhưng đang theo học ở Gambia, đã tìm đường tới Turin thuộc bắc Ý. Khi mới 16 tuổi anh tới Libya để tìm việc, nhưng vì không có giấy tờ, nên phải vật lộn để tìm được việc làm. Cảm thấy sống ở đất nước này nguy hiểm và chịu những thành kiến vì màu da của mình, anh quyết định trả tiền cho một kẻ buôn người cho chuyến vượt Địa Trung Hải đến đảo Sicily của Ý vào tháng Tư năm nay. "Biển thật đáng sợ và thuyền thì rất đông," anh nhớ lại. Hai ngày sau khi thuyền ra khơi, anh và những người di cư khác được hải quân Ý cứu và được đưa vào một nơi tạm trú, vốn là một khách sạn, cùng với hàng chục thanh niên khác từ Nigeria, Somalia và Eretria. Ở đây, những người di cư này được phát quần áo, thực phẩm và một khoản trợ cấp nhỏ. Omar hiện được chuyển tới Turin của Ý và sống trong một tòa nhà cùng với những người di cư khác - chủ yếu từ Senegal. Omar đang học tiếng Ý với bạn của anh là Abdul trong khi lưu lại Turin, Ý Trong khi anh đang chờ quyết định về tình trạng của mình, Omar đtheo học lớp dạy tiếng Ý. Anh hy vọng sẽ tìm được việc để có thể giúp đỡ cho gia đình ở quê nhà. "Tôi thực sự muốn làm việc và có một ít tiền gửi về nhà, vì cha tôi đã qua đời," anh nói. "Giờ chỉ còn tôi và tôi có các em trai và một em gái." Anh cho biết anh có thể sang Đức hoặc Anh trong tương lai. "Tôi cần một nơi mà ở đó tôi được tự do về tinh thần," anh nói thêm.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét