ITALIA, CÁI NÔI CỦA ÂU CHÂU
Nằm ở phía Nam của châu Âu, Không chỉ nổi tiếng là Kinh đô thời trang, đất nước Italy với những công trình kiến trúc mang dáng dấp của một vương quốc La Mã cổ xưa và huyền thoại, từ lâu đã là điểm đến mơ ước của nhiều du khách.
Văn hóa Italia được thể hiện qua những di tích, những thắng cảnh tuyệt vời có rất nhiều trên đất nước này, như đấu trường Coloseum, như đài phun nước Trevi, như Vatican, như giáo đường Duomo, như rất nhiều quảng trường hiện diện trên khắp các thành phố, thị trấn Italia…. Tìm hiểu văn hóa Italia, chúng ta sẽ thấy một đất nước với một chiều dài lịch sử và một nền văn hoá đồ sộ, cổ kính và lâu đời "có một không hai".
Italia là vùng đất của những huyền thoại, của vẻ đẹp kiến trúc - lịch sử - văn hóa vang danh một thời. Trải nghiệm và thích thú, chính là cảm giác không thể nào quên khi du khách đã từng một lần đặt chân đến vùng đất xinh đẹp và cổ kính này.
Italia - Cái nôi của nền văn minh Châu âu từng là nơi xuất phát của nhiều nền văn hoá châu Âu, như Etruscan và La Mã, và sau này cũng là nơi sản sinh ra phong trào Phục hưng Italia. Thủ đô Roma của Italia từng là trung tâm của nền Văn minh phương Tây, và là trung tâm của Giáo hội Công giáo La Mã. Có người cho rằng người Italia đã sáng lập ra du lịch từ thế kỷ 16, nhưng chắc chắn không một quốc gia nào trên thế giới có thể để lại cho nhân loại nhiều biểu tượng văn hóa, ngành công nghiệp ôtô hàng đầu, kiến trúc, thời trang, các vở opera kinh điển, hội họa, điêu khắc và ẩm thực.
Mãi đến năm 1861, Italia mới trở thành một nước thống nhất từ nhiều lãnh thổ tự trị. Điều này đã hình thành nên các truyền thống và tập tục đặc trưng từng vùng, làm nên bản sắc văn hóa Italia ngày nay. Ngược lại với sự cô lập chính trị và xã hội của các vùng này, Italia vẫn có những đóng góp đáng kể vào di sản văn hóa và lịch sử của châu Âu và thế giới. Hiện nay Italia được coi là nơi lưu giữ nhiều công trình di sản văn hóa thế giới bậc nhất.
Văn hóa của Italia tiết lộ trong các di tích cổ và tàn tích lịch sử, phản ánh tinh thần giác ngộ và sang trọng
Kể từ khi ra đời, đất nước đã đóng góp đủ vào sự tiến bộ của nền văn hóa thế giới. Những người Italia, chuyên gia và hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực văn hóa như văn học, âm nhạc, kiến trúc và điêu khắc là các tác giả của kiệt tác trong các lĩnh vực tương ứng. Mặc dù tất cả những khác biệt khu vực và địa hình, di sản văn hóa của Italia là điều mà các cherish Italia và tự hào về, và họ cảm thấy đặc quyền này để bàn giao di sản văn hóa phong phú cho tới thế hệ tới.
Sự mở rộng của Văn hóa của Italia đã bắt đầu chủ yếu trong thời Phục hưng đó bắt đầu một cuộc cách mạng toàn diện trong lĩnh vực văn hóa khác nhau trên toàn cầu. Hiệu quả của thời Phục Hưng ở châu Âu đã được trực tiếp cảm thấy trên bán đảo Italia. Kết quả là, thời kỳ này đã chứng kiến một số thay đổi mạnh mẽ, vô cùng ảnh hưởng đến trí tưởng tượng, sáng tạo, hàng tồn kho và trí tuệ của con người nói chung. Chuyển đổi đột ngột này, nhưng rõ ràng đã được hấp thu trực tiếp của dân Italia và tiết lộ trong các tác phẩm nghệ thuật sau này. Điêu khắc, kiến trúc, nghệ thuật, khoa học, ngôn ngữ, văn học, thể thao, triết lItalia và âm nhạc được mua một chiều hướng mới trong các mặt văn hóa mới này và trỗi dậy ngoạn. Tác phẩm nổi tiếng đã được sản xuất bởi cá tính ưu việt của Italia. Trong lĩnh vực văn học, một số kiệt tác như "The Divine Comedy" được viết bởi Dante Alighieri. Một hình thức mới của phong cách thơ được gọi là "Sonnet" tiến hóa do thời Phục Hưng. Sonnet như là một hình thức nổi bật của phong cách văn học đã được giới thiệu của nhà thơ nổi tiếng Italia, Petrarch và sau đó theo sau Shakespeare. Nhà triết học của thanh danh như Niccolò Machiavelli với tạo đời đời của ông, "The Prince" đề xuất phương pháp mới của cầm quyền đất nước và dẫn đầu chính phủ. Machiavelli của việc thay đổi các chính trị Nhận định hiện hành và sửa đổi các quan điểm thiên vị đến một mức độ lớn. Tên của Michelangelo (người sáng tạo của David, Pietà và Môi-se), Leonardo da Vinci (họa sĩ của Monalisa), Titian và Raphael là inseparably liên kết với tác phẩm điêu khắc Italia và tranh vẽ.
Trong khi đó, tiến bộ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ là lúc chiều cao của nó với sự đóng góp bao la Galileo Galilei trong thiên văn học. Các nhà vật lItalia nổi tiếng, Fermi nghiên cứu LItalia thuyết lượng tử, trong khi những vấn đề liên quan đến pin điện đã được đưa chăm sóc bởi Volta. Như nhà toán học Lagrange và Fabonacci, người đoạt giải Nobel như Marconi (phát minh ra đài phát thanh) và Antonio Mencci đóng góp vô cùng hướng tới sự phát triển văn hoá của Italia trong độ tuổi này.
Một loạt các trào lưu nghệ thuật và trí thức lan rộng khắp châu Âu bắt nguồn từ Italia, bao gồm Thời Phục hưng và Thời Ba-rốc, cùng với những nghệ sĩ đã đi vào huyền thoại như Michelangelo, Leonardo da Vinci, Donatello, Botticelli, Fra Angelico, Tintoretto, Caravaggio, Bernini, Titian và Raffaello.
Văn học Italia có truyền thống nổi tiếng lâu đời về tính chất sáng tạo mới mẻ và tính độc đáo. Truyền thống La tinh được các học giả lưu giữ, ngay cả sau khi đế chế La Mã phương Tây suy vong. Nền văn học Italia thể hiện một quá trình thay đổi lớn qua sự phát triển của thời kỳ phục hưng và đã được thể hiện qua những tác phẩm của Aligheiri Dante, Petrarch, và Boccaccio. Các tác phẩm Divine của Dante, Sonnets của Petrarch đến tác phẩm Decamerone của Laura và Boccaccio đều là những tác phẩm tiêu biểu đối với các nhà văn trong thời phục hưng sau này.
Ngôn ngữ Italia hiện đại xuất phát chủ yếu từ phương ngữ của vùng Firenze và một trong những người có công xây dựng tiếng Italia chính là Dante Alighieri, tác giả của tác phẩm danh tiếng "Divina Comedia" (Thần khúc), được coi là một trong những tuyên ngôn văn chương đầu tiên xuất hiện ở châu Âu và thời Trung đại.
Ngoài ra, một cách biểu đạt văn chương mới, thể loại sonnet, cũng được sáng tạo ra từ Italia, qua các tác giả văn học nổi tiếng như: Boccaccio, Giacomo Leopardi, Alessandro Manzoni, Tasso, Ludovico Ariosto, và Petrarch. Ngoài ra không thể không kể đến những triết gia điển hình như: Bruno, Ficino, Machiavelli, và Vico.
Tác giả văn học hiện đại đoạt giải Nobel là nhà thơ Giosuè Carducci vào năm 1906, Grazia Deledda năm 1926, Salvatore Quasimodo năm 1959 và nhà viết kịch sân khấu Dario Fo năm 1997.
Giai đoạn văn học của Italy lớn nhất là trong thế kỷ 14 Ba nhà văn quan trọng nhất là Dante, Petrarca và Boccaccio. Dante nổi tiếng với các Divine Comedy, đó là thực sự về Thiên đàng và địa ngục! Trong thực tế, mô tả của ông về cả Heaven và Hell rất nhiều liên kết với các khái niệm hiện đại của Petrarca làm việc hơn là triết học, được gọi là 'cha đẻ của nhân văn ".. Như một nhà thơ, ông hoàn thiện các Sonnet. Boccaccio đã viết một số tác phẩm vượt thời gian và' ông Decameron 'có thể được hưởng ngay cả của người đọc hiện đại .
Từ âm nhạc dân gian tới âm nhạc cổ điển, âm nhạc luôn đóng vai trò quan trọng trong văn hoá Italia. Là nơi sinh của opera, và ngôn ngữ của Italia đã cung cấp từ vựng âm nhạc, thiết lập nhiều nền tảng cho truyền thống âm nhạc cổ điển. Vào cuối thế kỷ XVI, các nhạc sĩ và thi sĩ thời Phục hưng ở Florence bắt dầu đưa thơ vào nhạc.
Những vở opera đầu tiên được sang tác vào đầu thế kỷ XVII tại Roma, Venice và Napoli. Khi sự yêu chuộng opera lan ra khắp nước, mỗi thành phố đã phát triển một phong cách opera của riêng mình. Nhà soạn nhạc Claudio Monteverdi, được coi là cha đẻ của opera hiện đại, là người đứng đầu trong số những nhà soạn nhạc thuộc trường phái Venice. Nhiều tác phẩm của ông được trình diễn trong nhá hát opera công cộng đầu tiên của Italia tại Venice năm 1637.
Chẳng mấy chốc, các nhạc sĩ hàng đầu châu Âu như Frideric Handel đã tới Italia để nghiên cứu opera. Vào cuối thế kỷ XVII, Alessandro Scalatti đã sang tác gần 100 bản opera và làm cho Napoli trở thành trung tâm của opera. Trong thế kỷ XVIII, phần kịch bản của opera trở nện quan trọng hơn, và những khúc nhạc cũng phức tạp hơn. Nhà hát opera nổi tiếng nhất châu Âu, La Scala, được khánh thành tại Milan năm 1778, và thậm chí cả Mozart vĩ đại cũng bắt đầu soạn những vở opera để trình diễn ở đây.
Thế kỷ XIX là thời kỳ âm nhạc thịnh vượng nhất tại Italia. Gioachino Antonio Rossini sang tác vở opera hài hước kinh điển Người thợ cạo thành Seville năm 1816. Giuseppe Verdi, được coi là nhà soạn nhạc tài năng nhất Italia, đã soạn 26 vở opera, trong đó có các vở Rigoletto (1851), Il Trovatore (1853), La Traviata (1853) và Aida (1871). Vở Aida được sáng tác ở Ai Cập, được trình diễn với những con lạc đà và voi thật trên sân khấu. Những vở opera của Verdi nổi tiếng bởi cốt truyện xúc động và các nhân vật chân thực. Một số vở opera của ông được rút ra từ những tác phẩm của Shakespeare và Victor Hugo, và các chủ đề của ông thường gắn với đấu tranh chống áp bức. Gia Puccini cũng là một nhà soạn nhạc tầm cỡ của thời kỳ này. Các vở La Boheme (1869) và Madame Butterfly (1904) của ông ngày nay vẫn còn được khán giả yêu thích bởi cốt truyện lãng mạn, xúc động và những giai điệu mượt mà.
Opera của Italia nguyên chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu. Với việc mở cửa nhà hát opera công cộng tại Venice, nó trở thành nguồn giải trí của mọi người. Vào đêm khai mạc một vở diễn mới, đám đông khan giả lèn chặt nhà hát. Mọi người bàn luận về vở opera mới sau khi xem. Vào thế kỷ XIX, đi xem opera trở thành một sinh hoạt xã hội chủ yếu của người Italia. Thậm chí ngày nay, khán giả opera Italia vẫn thích bàn luận về opera hay những vấn đề khác trong buổi diễn; vài người theo dõi sát những diễn biến trên sân khấu, số người khác thì bình phẩm với người xung quanh.
Là nơi sản sinh ra dòng nhạc opera, Italia đã xây dựng nền tảng vững chắc cho truyền thống âm nhạc cổ điển. Các nhạc cụ cổ điển như dương cầm và viôlông được sáng tạo ra từ Italia và nhiều thể loại nhạc cổ điển như giao hưởng, côngxectô và xô nát cũng đã xuất hiện từ thế kỷ 16,17 trong nền âm nhạc nước này. Những nhà soạn nhạc tài ba của Italia trong thời kì Phục hưng là: Palestrina và Giusseppe Verdi, các nhà soạn nhạc Ba-rốc như: Alessandro Scarlatti và Vivaldi, các nhà soạn nhạc cổ điển như Rossini và Paganini, nhà soạn nhạc lãng mạn như Verdi và Puccini. Hai nhà soạn nhạc Berio và Nono cũng có góp quan trọng vào nền âm nhạc hiện đại với sự phát triển của nhạc điện tử thử nghiệm.
Các nhạc cụ gắn liền với âm nhạc cổ điển, và nhiều hình thức âm nhạc cổ điển hiện tại đều có thể tìm thấy nguồn gốc từ những phát minh ở thế kỷ 16 và 17 trong âm nhạc Italia (như symphony, concerto và sonata). Một số nhà soạn nhạc Italia nổi tiếng nhất gồm các nhà soạn nhạc thời Phục hưng Giovanni Pierluigi da Palestrina và Claudio Monteverdi, các tác gia phong cách Baroque Arcangelo Corelli và Antonio Vivaldi, các nhà soạn nhạc Cổ điển Niccolò Paganini và Gioacchino Rossini, và các nhà soạn nhạc Lãng mạn Giuseppe Verdi và Giacomo Puccini. Các nhà soạn nhạc Italia hiện đại gồm Luciano Berio và Luigi Nono cũng đóng góp đáng kể cho sự phát triển của âm nhạc thể nghiệm và âm nhạc điện tử.
Thành phố như Venice
Italia tự hào có một thời gian dài phong cách kiến trúc khác nhau, từ cổ điển La Mã và Hy Lạp, Gothic, Phục Hưng, Baroque, Neo-Classical, Art Nouveau để hiện đại. Kiến trúc Italiabắt đầu với Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại và Etruscan, khi cả hai nền văn minh được xây dựng đền thờ, basilicae, cột, các diễn đàn, cung điện, aqueducts, tường và phòng tắm công cộng. Sau khi các nền văn minh cổ điển, tiếng Italia phát triển một kiến trúc nổi tiếng Gothic đặc biệt là hướng tới thế kỷ 12. Thành phố như Venice, Vicenza, Florence, Siena, Assisi và Pisa chủ yếu là bị ảnh hưởng bởi thời kỳ kiến trúc Gothic và Roman. Sau đó, trong thế kỷ 15 và 16, Italia đã trở thành nơi sinh của Phục hưng với Florence và Rome là trung tâm chính của nó. Sau đó, Italia đã trở thành một trung tâm chính của châu Âu cho baroque, với đa dạng phong cách kiến trúc baroque mới nổi, đặc biệt là ở Sicily. Sau đó, trong tân thế kỷ 18 và 19-tòa nhà theo phong cách cổ điển bắt đầu xuất hiện tại Rome, Milan, Torino và tất cả xung quanh Italy. Hiện nay, kiến trúc và thiết kế ở Italia được coi là đẳng cấp thế giới và rất nổi tiếng với Milan là thủ đô của đất nước. Nhiều kiến trúc sư người Italia hiện đại, như Renzo Piano, nổi tiếng trên toàn thế giới.
- Kiến trúc Gothic
Kiến trúc Gothic xuất hiện ở Italy vào thế kỷ thứ 12. Kiến trúc Gothic luôn luôn duy trì đặc thù mà phân biệt sự tiến hóa của nó từ đó ở Pháp, nơi mà nó có nguồn gốc, và ở các nước châu Âu khác. Đặc biệt, các giải pháp ardite kiến trúc và đổi mới kỹ thuật của nhà thờ Gothic Pháp không bao giờ xuất hiện: kiến trúc sư người Italia ưa thích để giữ truyền thống xây dựng thành lập tại các quốc gia trước đó. Thẩm mỹ, tại Italia sự phát triển theo chiều dọc là hiếm khi quan trọng.
- Kiến trúc Phục Hưng
Italiacủa thế kỷ 15, và thành phố của Florence nói riêng, là quê hương của thời Phục Hưng. Đó là ở Florence rằng phong cách kiến trúc mới đã bắt đầu của nó, không phải từ từ tiến triển trong cách Gothic đã tăng trưởng trên Romanesque, nhưng Italia thức được đưa đến bởi kiến trúc sư cụ thể những người đã tìm cách khôi phục trật tự của một quá khứ "Golden Age". Phương pháp học đến kiến trúc của các cổ trùng hợp với sự hồi sinh chung của học tập. Một số yếu tố có ảnh hưởng lớn trong việc mang về điều này.
Sự hiện diện, đặc biệt là tại Rome, các kiến trúc cổ xưa vẫn còn hiển thị theo phong cách ra lệnh cổ điển được cung cấp một nguồn cảm hứng cho các nghệ sĩ tại một thời điểm khi triết lItalia cũng đã được chuyển về phía cổ điển.
Bảo tàng Correr
Nghệ thuật và viện bảo tàng ở Italia giành được danh tiếng của nó trên toàn thế giới. Các viện bảo tàng Italia như một bộ sưu tập độc đáo của nghệ thuật và văn hóa mà nó có đúng được gọi là fide bona mở không khí nghệ thuật thư viện. Các bộ sưu tập của nghệ thuật và viện bảo tàng là những kho báu của Italia. Theo nguồn tin của UNESCO, Italia có hơn một nửa số bộ sưu tập của thế giới về nghệ thuật và viện bảo tàng. Italia bao gồm nghệ thuật của nhà thờ, nhà thờ, tu viện pariches, convents, thánh đường, lâu đài và biệt thự.
Venice ở Italia có một số viện bảo tàng ngoài trời tuyệt vời. Venice của Bảo tàng nghệ thuật hiện đại và Bảo tàng Nghệ thuật phương Đông nổi tiếng với những bức tranh đẹp của nó. Các Bảo tàng Peggy Guggenheim và Bảo tàng Correr nổi tiếng về bức tranh nghệ thuật. Các Peggy Guggenheim Museum từng là nơi ở của những người Mỹ heiress Peggy Guggenheim. Bảo tàng có một số bức tranh đẹp của Picasso, Chagall, Mondrian, Kandinski và Đại Italia.
Các thư viện Accademia của Venice nổi tiếng với những bức tranh của các lần thứ 14 và thế kỷ thứ 15. Bộ sưu tập này có bức tranh của Titian, Tintoetto và Canaletto Arsenale Bảo tàng. Có mô hình Serenissima Tàu và các mô hình khác trong lịch sử hải quân.
Bảo tàng Correr ở Venice lần đầu tiên bắt đầu năm 1830 với sự tài trợ của các bộ sưu tập nghệ thuật của Teodoro Correr. Các bức tranh của Carpaccio đã giành được danh tiếng cho bảo tàng này.. Bức tranh của những con người trẻ tuổi và hai nữ Venezia rất đáng xem. Còn bảo tàng nghệ thuật của Grande Scuola di San Rocco có một số bộ sưu tập tuyệt vời của bức tranh của Tintoretto.
Cùng với điện ảnh Pháp, điện ảnh Italia là một trong những nền điện ảnh lâu đời nhất thế giới và là trụ cột của ngành công nghiệp điện ảnh châu Âu. Italia và Pháp cũng là hai quốc gia dẫn đầu về số Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất, vượt xa các nền điện ảnh lớn khác.
Chỉ vài tháng sau khi Anh em Lumière phát minh ra kỹ thuật điện ảnh, nền nghệ thuật mới này đã xuất hiện ở Roma, Italia khi Giáo hoàng Leo XIII được ghi hình trong thời gian vài giây trong khi đang cầu nguyện.
Công nghiệp điện ảnh Italia được thực sự hình thành trong khoảng thời gian từ năm 1903 đến 1908 với 3 hãng phim lớn, Cines ở Roma, Ambrosio ở Turino và Itala Film. Các hãng phim khác cũng nhanh chóng được thành lập tại Milano và Napoli. Chỉ trong thời gian ngắn, các công ty này đã nhanh chóng sản xuất được những bộ phim có chất lượng và thực hiện việc xuất khẩu phim ra bên ngoài nước Italia. Sở trường thời bấy giờ của điện ảnh nước này là các bộ phim lịch sử với tác phẩm đầu tiên là La presa di Roma, 20 settembre 1870 được đạo diễn Filoteo Alberini thực hiện năm 1905. Các bộ phim tiếp theo nói về những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử như Bạo chúa Nero, Julius Caesar và Cleopatra được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Bộ phim của Arturo Ambrosio, Gli ultimi giorni di Pompei (Ngày cuối cùng của Pompei, 1908) nổi tiếng tới mức chỉ sau đó 5 năm nó đã được làm lại một phiên bản khác do Mario Caserini đạo diễn. Các nữ diễn viên điện ảnh ngôi sao (tiếng Italia: diva) đầu tiên của công nghiệp điện ảnh Italia có thể kể tới Lyda Borelli, Francesca Bertini và Pina Menichelli, trong đó Francesca Bertini có lẽ là một trong những diễn viên đầu tiên xuất hiện trên bán khỏa thân trong một bộ phim.
Trong khi điện ảnh Italia đang phát triển rực rỡ thì chính quyền Phát xít Italia bắt đầu tăng cường kiểm soạt các loại hình nghệ thuật phổ biến, bao gồm cả điện ảnh. Dưới sự ủng hộ của Benito Mussolini, một khu vực lớn ở phía Tây Nam Roma đã được dành riêng để xây dựng một khu phố điện ảnh (ex novo) cực lớn lấy tên là Cinecittà. Khu phố này được quy hoạch để có tất cả những cơ sở cần thiết cho một bộ điện ảnh, bao gồm các rạp phim, các khu trường quay, khu kĩ thuật và thậm chí là một trường dạy quay phim cho các nghệ sĩ trẻ. Cùng lúc này, Vittorio Mussolini, con trai của nhà độc tài cũng đứng ra thành lập một công ty sản xuất phim quốc gia để tạo điều kiện hoạt động cho tất cả các tài năng điện ảnh, từ đạo diễn, nhà biên kịch đến diễn viên. Kết quả của những chính sách khuyến khích điện ảnh này là sự ra đời của một thế hệ đạo diễn cực kì tài năng gắn với Cinecittà trong đó phải kể tới Roberto Rossellini, Federico Fellini và Michelangelo Antonioni.
- Đề tài Chủ nghĩa hiện thực mới
Thế chiến thứ hai bùng nổ buộc điện ảnh Italia phải tập trung cho các bộ phim mang tính chất tuyên truyền cho quân đội Phát xít. Tuy vậy năm 1942 đạo diễn Alessandro Blasetti lại cho ra đời bộ phim về tầng lớp bình dân Quattro passi tra le nuvole đánh dấu sự ra đời của trào lưu Hiện thực mới (neorealismo) trong nghệ thuật điện ảnh Italia.
Trào lưu hiện thực mới thực sự bùng nổ và gây tiếng vang ngay sau khi chiến tranh kết thúc, chỉ trong thời gian cuối thập niên 1940, điện ảnh Italia đã chứng kiến sự ra đời của những bộ phim để đời như bộ ba Roma città aperta (1945), Paisà (1946), Germania anno zero (1948) của Roberto Rossellini. Tuy Cinecittà không thể hoạt động nhưng việc sản xuất phim vẫn được tiến hành ngoài trời, ngay trên những con đường bị tàn phá của một đất nước đã thua cuộc trong Thế chiến thứ hai. Những bộ phim khắc họa cuộc sống khó khăn của nước Italia sau chiến tranh và diễn xuất tuyệt vời của các diễn viên như Anna Magnani (diễn viên Italia đầu tiên giành Giải Oscar Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất) là một công cụ văn hóa quan trọng của chính quyền trong việc khích lệ tinh thần người dân.
Những năm sau chiến tranh cũng chứng kiến sự thăng hoa của một trong những đạo diễn Italia vĩ đại nhất, Vittorio De Sica, với một loạt bộ phim hiện thực kinh điển như Kẻ cắp xe đạp (Ladri di biciclette, 1948), Miracolo a Milano (1950) và Umberto D. (1952).
Với số lượng lớn tác phẩm đặc sắc, chỉ trong vòng hơn 10 năm từ 1947 đến 1959, điện ảnh Italia đã giành tới 5 Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất cho các phim Sciuscià (1947), Kẻ cắp xe đạp (1949), Le mura di Malapaga (1950, sản phẩm hợp tác với Pháp), La strada (1956) và Le notti di Cabiria (1957) trong đó 2 phim đầu do De Sica đạo diễn còn 2 phim cuối do Federico Fellini đạo diễn.
- Trào lưu hiện thực mới hồng và phim hài
Sau Umberto D., trào lưu hiện thực mới trong điện ảnh Italia gần như chấm dứt, có lẽ một phần do điều kiện kinh tế và xã hội được cải thiện đã hướng các đạo diễn tới những đề tài mới tươi sáng hơn là các tác phẩm mang gam màu tối về cuộc sống. Thế chỗ nó là trào lưu hiện thực mới hồng (neorealismo rosa), vẫn là các bộ phim lấy đề tài xã hội Italia nhưng có sự góp mặt của các nữ diễn viên xinh đẹp như Sophia Loren, Gina Lollobrigida, Silvana Pampanini, Lucia Bosé.
Trào lưu hiện thực mới hồng được tiếp nối bằng những bộ phim hài đặc trưng kiểu Italia (Commedia all'Italiana) có đề tài xã hội cực kì nghiêm túc nhưng lại được diễn đạt bằng những đoạn thoại và cảnh phim hài hước, trào phúng. Bộ phim mở đầu cho trào lưu này làIsoliti Ignoti (1958) của đạo diễn Mario Monicelli. Vittorio Gassman, Marcello Mastroianni, Ugo Tognazzi, Alberto Sordi, Claudia Cardinale, Monica Vitti và Nino Manfredi là những ngôi sao lớn của thể loại phim này, họ cũng là những diễn viên tiêu biểu cho thời kì phục hồi của kinh tế Italia. Mastroianni còn là diễn viên chính của một trong những bộ phim Italia xuất sắc nhất thế kỷ, La dolce vita (1960) của Fellini, tác phẩm đoạt giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes năm 1960.
- Phim miền Tây kiểu Italia
Những năm 1960 chứng kiến sự ra đời của một thể loại phim đặc sắc của Italia, những bộ phim miền Tây kiểu Italia (Spaghetti Western), vốn xuất phát từ những bộ phim miền Tây truyền thống của điện ảnh Hoa Kỳ nhưng lại được quay tại Italia với kinh phí thấp và kịch bản cũng như phong cách quay rất đặc sắc.
Đại diện tiêu biểu cho thể loại phim này là bộ ba phim dollar (Dollars Trilogy) của đạo diễn Sergio Leone gồm Per un pugno di dollari (1964), Per qualche dollaro in più (1965) và Il buono, il brutto, il cattivo (1966) đều do Clint Eastwood thủ vai chính và Ennio Morricone viết nhạc phim.
- Giallo - Thể loại phim kinh dị
Giallo (màu vàng) là thể loại phim kinh dị kiểu Italia bắt đầu nổi lên trong thập niên 1960 và 1970 khi các đạo diễn Mario Bava, Riccardo Freda, Antonio Margheriti và Dario Argento thực hiện các bộ phim kinh dị và rùng rợn kinh điển sau này có ảnh hưởng lớn tới thể loại này của điện ảnh thế giới như La maschera del demonio (1960), Danza macabra (1964), Reazione a catena (1971) và L'uccello dalle piume di cristallo (1970).
Thể loại này được khai thác sâu hơn bằng những bộ phim điện ảnh kiểu tài liệu (Mondo movie) trong đó các cảnh quay được thực hiện bằng phong cách quay phim tài liệu với bối cảnh phim gần với hiện thực ở mức cao nhất. Tiêu biểu cho phong cách này là Mondo Cane (1962) của Gualtiero Jacopetti và đặc biệt là Cannibal Holocaust (1980) của Ruggero Deodato. Cannibal Holocaust được quay chân thực và kinh dị tới mức ở rất nhiều nước nó bị cấm phát hành và đạo diễn Deodato thậm chí còn bị mời hầu tòa vì các quan chức tưởng đây là một bộ phim tài liệu quay cảnh giết người thật (phim snuff - snuff film) và Deodato chỉ được thả sau khi đưa ra các bằng chứng cho thấy các diễn viên vẫn còn sống sau khi thực hiện các cảnh phim.
- Cuộc khủng hoảng thập niên 1980
Từ cuối thập niên 1970 đến giữa thập niên 1980 điện ảnh Italia lâm vào tình trạng khủng hoảng kéo dài, các bộ phim nghệ thuật đăc trưng cho nghệ thuật thứ 7 Italia bị chia cắt khỏi dòng phim chính trên thị trường. Những bộ phim được ưa chuộng thời kì này thường chỉ là những bộ phim có chất lượng nghệ thuật thấp, thường là phim hài đề cập tới những điều cấm kị trong xã hội Italia, đặc biệt là về các đề tài tình dục.
Trong số ít ỏi các bộ phim có chất lượng nghệ thuật cao có thể kể tới tác phẩm hợp tác Hoàng đế cuối cùng (The Last Emperor) của đạo diễn Bernardo Bertolucci, bộ phim này đã giành Giải Oscar Phim hay nhất cùng 8 giải Oscar khác. Một bộ phim xuất sắc khác là C'era una volta in America của Sergio Leone.
- Thập niên 1990 đến nay
Cuối thập niên 1980 một thế hệ đạo diễn mới đã bắt đầu đem lại sức sống cho các bộ phim Italia. Sự hồi sinh của điện ảnh Italia bắt đầu với bộ phim gây tiếng vang Rạp chiếu bóng Thiên đường (Nuovo Cinema Paradiso, 1988) của Giuseppe Tornatore, tác phẩm chiến thắng tại hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại lễ trao Giải Oscar năm 1990. Cũng tại hạng mục này điện ảnh Italia còn hai lần chiến thắng khác vào thập niên 1990 với Mediterraneo (1991) của Gabriele Salvatores và Cuộc sống tươi đẹp (La vita è bella, 1998) của Roberto Benigni. Benigni cũng là người Italia đầu tiên giành tới 3 giải Oscar trong một năm với các giải Vai nam chính, Phim nói tiếng nước ngoài và Nhạc phim.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét