"thơ tôi làm ra không phải để bán" (Hữu Loan)

Hữu Loan (1916-2010).

Tôi từng du lãng nhiều lần xung quanh khu nhà ông trước năm 2010. Nhưng mải đi tìm Mai Anh Tuấn (sau thành tên một ngôi trường mà Hữu Loan đã có kỉ niệm), lại vướng cả vào với cả Mai An Tiêm, nên không dứt ra khỏi ruộng dưa hấu.

Có mấy bản tự thuật khác nhau đang được cùng công bố. Có những chỗ khác nhau. Hiện không biết bản nào là bản thật của Hữu Loan, bản nào đã được sửa chữa. Có nhiều trang web vốn công bố, rồi bây giờ thì hình như đã xóa đi.

Nhưng riêng câu "Thơ tôi làm ra không phải để bán" thì không có sự khác nhau giữa các bản. Nên có thể xem đó là lời thật của Hữu Loan.

Dưới là sưu tầm những bản hiện có, đến thời điểm hiện tại.

Làm dần dần.

---


1. Bản năm 2014 của NLM (không biết nguồn ở đâu)

"

Cộng đồng mạng rơi nước mắt vì tự sự đớn đau của cha đẻ "Màu tím hoa sim"

11:14 | 18/08/2014

(PetroTimes) - Vài ngày gần đây, những tự sự của nhà thơ Hữu Loan, cha đẻ "Màu tím hoa sim nổi tiếng" đã tạo ra niềm xúc động lớn trong với cộng đồng mạng. Tự sự đớn đau này được chia sẻ  rất nhiều trên Facebook tạo nên nhiều thổn thức. "Rất cảm động, vì sự chân thành, vì tình người, tính người. Và có thể hình dung cả bối cảnh một thời cuộc tao loạn. Mỗi số phận cá nhân đều chứa trong lòng nó những bi kịch của lịch sử" - (Kim Dung)
Những người yêu thơ tình, không ai không biết đến bài thơ "Màu tím hoa sim đầy xúc động". Đằng sau đó là một câu chuyện còn sâu sắc hơn, đau đáu hơn của tác giả Hữu Loan.
Nhà thơ Hữu Loan
Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê ...

Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh ...

Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...


Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.

Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.

Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu
Hữu Loan
Xin trích đăng những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan:
"Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên.
Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.
Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.
Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”.
Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ…
Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì.
Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến.
Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi.
Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ”soạn kịch bản”.
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”.
Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng.
Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.
Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..
Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối!
Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…
Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép.
Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.
Đó là bài thơ Màu tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim…
Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời... từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều... Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!
Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông…
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý...
Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo.
Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản...
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.
Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước.
Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách.
... Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc....
Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ...
Năm 1988, tôi "tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu tím hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán".
Nhà thơ Hữu Loan


"

http://petrotimes.vn/news/vn/xa-hoi/cong-dong-mang-roi-nuoc-mat-vi-tu-su-don-dau-cua-cha-de-mau-tim-hoa-sim.html#.VSH5a-hXh5k.facebook



2. Bản tin năm 2010 của VOA

"


Nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ “Mầu tím hoa sim” đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95
Nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ “Mầu tím hoa sim” đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95


Thi sĩ Hữu Loan: Tác giả 'Màu Tím Hoa Sim' đã ra đi…

12.4.1916 – 18.3.2010

Nguyễn Hoàng
Hôm thứ Năm 18 tháng Ba, 2010, hộp thư tôi tràn ngập mail bạn bè gửi về với tiêu đề Tác Giả Màu Tím Hoa Sim Đã Ra đi… Thư của nhạc sĩ Hoàng Thi Thao từ Quận Cam, thư của nhạc sĩ Trần Nhật Hiền từ San Jose, thư của Lê Tấn Lộc từ Canada… tất cả thư từ về tin thi sĩ Hữu Loan vừa ra đi đều có kèm theo hình của thi sĩ chụp bên người vợ.
Bức hình đi kèm ghi chú:
Nhà thơ Hữu Loan và vợ – bà Phạm Thị Nhu năm 2009. Tác giả bức ảnh là Hồ Trần.
Bản tin ngắn ký tên Ngân Hà có nội dung như sau:
Vào lúc 19g00 tối nay 18.3.2010, nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ "Màu Tím Hoa Sim" đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95 (12.4.1916 – 18.3.2010). Trong lúc chờ đợi con cái về đông đủ, bà Nhu, vợ ông và 4 người con ở quê đã khâm liệm đặt ông vào quan tài yên nghỉ vào lúc 23g cùng ngày.



Nhà thơ Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan, quê làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông đậu tú tài nhưng về quê mở trường dạy học và hoạt động phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1943 , ông gây dựng phong trào Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp ông thuộc Đại đòan 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại báo Văn Nghệ.



Bài thơ "Đèo cả" mở đầu sự nghiệp thi văn của ông đã vang danh khắp chiến trường kháng chiến chống Pháp. Tiếp đó, người vợ đầu tiên Nguyễn Thị Ninh mất (1949) và ông nghe tin dữ khi đang trên đường hành quân khiến ông đã viết lên những vần thơ bất hủ "Màu Tím Hoa Sim" đi sâu vào lòng người cho đến tận bây giờ và có lẽ cũng là mãi mãi.

Lấy người vợ thứ hai vào năm 1954, bà Nguyễn Thị Nhu, ông tiếp tục làm ở báo Văn Nghệ cho đến khi bị đi tù với nỗi oan nghiệt dính vào nghiệp văn chương. Ra tù, ông trở về quê đục đá kiếm sống nuôi 10 người con và sống với những ký ức vừa đẹp đẽ vừa đau thương cho đến ngày hôm nay, bên cạnh người vợ tần tảo, thủy chung.
Đêm nay, xin thắp một nén hương thiêng vĩnh biệt linh hồn người thi sĩ đáng kính.
Sự ra đi của Hữu Loan, tác giả bài thơ được nhắc nhở cả hai miền Nam Bắc trong suốt cuộc chiến Việt Nam và cả những năm sau cuộc chiến, có lẽ còn nói và viết nhiều. Nhưng có một vài chi tiết bên lề có lẽ rồi đây sẽ được nói rõ: Bài viết của Ngân Hà cho biết tên người vợ đầu tiên của thi sĩ là Nguyễn thị Ninh và người vợ sau là Nguyễn thị Nhu, thế nhưng bản tin trên tờ Thanh Niên cho biết người vợ trẻ có tên là Đỗ Thị Lệ Ninh “đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối. Các anh của “nàng”, theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên Thường vụ Trung ương Đoàn” và ngay tên người vợ sau của thi sĩ cũng khác họ. bài viết ghi bà tênNguyễn Thị Nhu trong khi chú thích ảnh thì ghi là Phạm Thị Nhu.. Nhưng trong bài Tự Thuật của thi sĩ thì người con gái trong bài thơ Màu Tím Hoa Sim tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh con ông Lê Đỗ Kỳ. Thi sĩ viết: “Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: 'Em chào thầy ạ' Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...”
Trong một email của nhạc sĩ Hoàng Thi Thao tôi được đọc bài trả lời phỏng vấn của báo Nhịp Cầu Thế Giới ở Hungary, nhạc sĩ Phạm Duy cho biết ông quen Hữu Loan từ ngày ông vào Khu 4 trong năm 1948 và làm văn nghệ trong Trung Đoàn 9. “Khi đó anh Hữu Loan là cán bộ trong Ủy Ban Kháng chiến tỉnh Thanh Hoá, ngày ngày cưỡi ngựa đi công tác khắp nơi trong tỉnh, trông rất oai nghiêm khiến tôi bái phục.. Biết anh cũng làm thơ, tôi cùng anh đàm đạo về thơ, được nghe anh đọc bài Màu Tím Hoa Sim, Đèo Cả, Tò He, Chiếc Chiếu, Những Làng Đi Qua, Hoa Lúa… Tôi đã có ý định phổ nhạc bài Màu Tím Hoa Sim ngay từ lúc đó…”
Phạm Duy cũng cho biết năm 2006, khi trở về nước, ông có đi xe ôm trong một ngày mưa lạnh đến Thanh Hoá thăm Hữu Loan và có tặng Hữu Loan một video trong đó có phần ông trả lời phỏng vấn về bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà…
Trả lời câu hỏi "Màu Tím Hoa Sim" của Hữu Loan đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như "Những đồi hoa sim" (Dzũng Chinh), "Chuyện hoa sim" (Anh Bằng) và nhất là "Áo anh sứt chỉ đường tà" (Phạm Duy). Mỗi ca khúc một vẻ, đều tôn vinh thi phẩm, nhưng ca khúc của bác đã phản ánh một cách bi hùng nhất những đau thương, mất mát của con người trong chiến trận. Tại sao bác lại chọn hình thức phổ nhạc như thế?” Phạm Duy nói: Hai nhạc sĩ Dzũng Chinh, Anh Bằng phổ nhạc bài thơ Màu Tím Hoa Sim một cách rất tốt nhưng dùng hình thức ‘tiểu khúc’ bình dân ngắn ngủi chỉ có một đoản khúc Pop Bolero, Slow Rock, giản dị dễ nghe, dễ hiểu… Và cũng vì các ông này không có kinh nghiệm đi kháng chiến nên không đem được nhiều cảm xúc buồn thương hay hùng vĩ vào trong nét nhạc. Còn tôi thì muốn soạn một “đại khúc” (grand music) bi hùng dài tới 5, 7 đoạn, một “chant patriotic. Có thế thôi!”
Trong bài Tự Thuật của Hữu Loan, thi sĩ cho biết “…cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.”
“Thơ tôi làm ra không phải để bán!”
Hữu Loan đã viết như thế trong bài tự thuật.
Thi sĩ Hữu Loan ra đi, nhưng bài thơ Màu Tím Hoa Sim của ông sẽ còn ở lại mãi mãi với chúng ta.

"
http://www.voatiengviet.com/content/thi-si-huu-loan-qua-doi-03-19-2010-88603327/852781.html


3. Bản lưu của nữ sĩ Gió O (2002, 2010) về cuộc phỏng vấn của BBC Việt ngữ (đã thực hiện năm 2002, và phát thành 2 lần trên sóng radio)

"




Hữu Loan  
1916 - 2010
"tôi bảo vệ tự do của tôi ...
và tự do của dân tộc...
tự do của mọi người." *
Một Cuộc Phỏng Vấn Lịch Sử: mp3(1)
Nhà Thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ bất hủ:
Màu Tím Hoa Sim: mp3(2)

- Hỏi: " Thưa ông, nhưng mà ông ở trong quê như vậy thì ông có theo dõi những cái tình hình chung của đất nước không ạ ? " - Đáp: "Có chứ, tôi theo dõi chứ. Tôi theo dõi những cái tình hình chung của đất nước bây giờ là lừa đảo rối bét, ăn tham bẩn nhất là thằng nào cũng lợi dụng trèo đầu cỡi cổ thằng dân chứ có cái gì đâu, tức là cái đảng Cộng sản đấy.Cái đảng Cộng sản mà còn lãnh đạo thì còn rối bét, không có ai là gương mẫu hết."

Hỏi: "Thưa ông, ông có là thành viên của Hội Nhà văn Việt Nam không ạ ?"  - Đáp: "Có chứ. Tội có cần thành viên đâu mà họ lại tha thiết để mờị Tôi xin ra cả Hội Nhà văn và xin ra cả đảng mà không được đấy chứ."
Đó là đoạn đối thoại thời sự nổi bật nhất giữa Hương Ly, phóng viên BBC tiếng Việt và Nhà thơ Hữu Loan trong cuộc phỏng vấn phát thanh ngày 12-10-2002. Cuộc phỏng vấn hiếm hoi của Ban Việt ngữ BBC được chia làm hai phần :

Phần I (ngày 5-10-02) nói về nguồn gốc của Tác phẩm Mầu Tím Hoa Sim và những hệ lụy của bài Thơ này đối với tính mạng và cuộc sống thăng trầm từ một Nhà thơ nổi tiếng tụt xuống hàng lao động và nông dân bần cùng của Nhà thơ Hữu Loan.
Và phần II (12-10-02) Nhà thơ Hữu Loan nói về nhóm Nhân văn - Giai phẩm cùng cuộc sống cơ hàn và những âm mưu ám sát, chế ngự đối với ông và gia đình ông của đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1956 đến bây giờ.
Năm nay ông Hữu Loan 87 tuổi ta (sinh ngày 2-4-1916), đang "ở nhà trông vườn" ở làng Nguyên Hoàn -- nơi ông gọi là chỗ " quê đẻ của tôi đấỷ" thuộc Xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóạ Tuy đã lớn tuổi, nhưng giọng nói của Nhà thơ rất rõ ràng, khúc chiết và đanh thép như khi ông còn thanh niên. Nhà Thơ Hữu Loan còn có một trí nhớ phi thường vì phần lớn cuộc đời ông đã phải chịu những đầy ải lao động cực hình giáng xuống đầu ông và gia đình ông bởi cái đảng mà ông đã đem hết tinh thần và sức lực phục vụ trong thời kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, dù gian khổ và chết hụt nhiều lần, Hữu Loan vẫn không bao giờ chịu quỵ lụy hay khuất phục bọn cường quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN). Khí phách hiên ngang của một Hữu Loan trí thức đã tỏa rộng trong cuộc phỏng vấn với BBC-Vietnamese Program.

TÔI KHÔNG QUỴ LỤY ĐƯỢC
Được hỏi "Tại sao từ chỗ một Nhà thơ mà bây giờ lại về quê  làm nông ?", Hữu Loan đáp:"Cái tính tôi không chịu quỵ lụy được.  Bởi vì (hồi ấy) ra làm ở ngoài Trung Ương thì bắt phải theo Cộng sản nên tôi bỏ tôi về. Tôi bỏ về nó không cho về ...Nó làm tôi tam tình, tứ tội, làm đủ cách để thủ tiêu nhưng mà tôi vẫn tin là tôi có sự che chở của Trời - Phật cho nên không thủ tiêu nổi, bao nhiều lần đầu độc không xong..."
Cái thời mà Nhà thơ Hữu Loan nói là vào thời kỳ hai năm 1955 - 1956 khi phong trào Văn nghệ sỹ chống Đảng bắt đầu bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đảng trị coi trí thức như cục phân, tham nhũng thối nát của cán bộ lãnh đạo, và đồng thời chống những Văn nghệ sỹ bồi bút đang tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca tụng Đảng và Hồ Chí Minh.
Trong số này đứng đầu là Tố Hữu rồi đến Vũ Khiêu, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu v.v. Phóng viên Hương Ly đã so sánh nghịch cảnh giữa những lời ca tụng của mọi người Việt Nam vào thời gian lúc ấy và ngay cả bây giờ đã dành cho Tác giả của Mầu Tím Hoa Sim với những hoạn nạn mà Hữu Loan phải gánh chịu, sau bài Thơ nàỵ Nhà thơ Hữu Loan cho biết lý do tại sao ông bị trù dập vì Mầu Tím Hoa Sim :
" Bởi vì người ta làm Thơ lúc bấy giờ là phải làm về Đảng, ca tụng Đảng, ca tụng Cộng sản, ca tụng cái buôn bán chiến tranh. Bởi vì cái đánh nhau là cái dễ kiếm chác lắm. Mà kiếm chác ở cái chiến tranh ấy thì khó kiểm tra lắm cho nên những cái bọn ăn bẩn ấy là bao giờ cũng chủ trương chiến tranh, buôn bán chiến tranh. Mà tôi thì tôi thấy cái đấy là cái khổ dân nhất nên tôi chống cái ấy hết sức cho nên vì vậy nên tôi làm cái bài Thơ lúc giờ ta đang một tí là người ta đề cao Hồ Chí Minh, hai tí là đề cao Hồ Chí Minh...lúc đó tôi đề cao cái Tình yêu...đề cao, tôi khóc cái người Vợ tử tế với mình, hiếm có của mình. Lúc đó khóc như vậy là nó cho là khóc cái tình cảm riêng...Lúc bầy giờ làm Thơ là phải có Hồ Chí Minh, có Đảng Cộng sản."
"Tôi làm vào cái lúc mà -- y như trong Thơ nói đấy -- tôi lấy bà Vợ rồi sau tôi đi vào Bộ đội thì ở nhà Bà ấy đi giặt Bà ấy chết đuối ở sông...Mới lấy nhau được có hơn tháng ấy mà...Thế rồi Bà ấy chết ở sông ... tôi thấy đau xót tôi làm cái bài Thơ ấy tôi khóc. Làm cái bài Thơ ấy lúc bấy giờ họ cho là "phản động"...Lúc bấy giờ làm Thơ là phải làm về Cộng sản, làm về Bác Hồ chứ không được khóc cái đau riêng của mình...Cái đau khổ riêng của con người là không được khóc."

MẦU TÍM HOA SIM
Sau đó, Hương Ly đã yêu cầu ông đọc bài thơ Mầu Tím Hoa Sim và Hữu Loan đã dằn lòng đọc ngắt ra từng chữ một, phân đoạn và run run như tức tưởi sững sờ trước mộ phần người vợ trẻ bạc số của ông :

"Nàng có ba người anh đi bộ đội 
Những em nàng có em chưa biết nói 
Khi tóc nàng xanh xanh 
Tôi người Vệ quốc quân xa gia đình 
Yêu nàng như tình yêu em gái 
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới 
Tôi mặc đồ quân nhân 
Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân 
Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo 
Tôi ở đơn vị về 
Cưới nhau xong là đi 
Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại 
Lấy chồng đời chiến chinh 
Mấy người đi trở lại 
Nhỡ khi mình không về 
Thì thương người vợ chờ bẻ bỏng chiều quê 
** 
Nhưng không chết người trai khói lửa 
Mà chết người gái nhỏ hậu phương 
Tôi về không gặp nàng 
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối 
Chiếc bình hoa ngày cưới 
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh 
Tóc nàng xanh xanh 
Năm chưa đầy búi 
Em ơi giây phút cuối 
Không được nghe nhau nói 
Không được trông nhau một lần 
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím 
Áo nàng mầu tím hoa sim 
Ngày xưa đèn khuya bóng nhỏ 
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa 
** 
Một chiều rừng mưa 
Ba người anh bị chiến trường đông bắc 
Biết tin em gái mất 
Trước tin em lấy chồng 
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông 
Em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị 
Khi gió sớm thu về 
Cỏ vàng chân mộ chí 
Chiều hành quân qua những đồi hoa sim 
Những đồi hoa sim 
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết 
Mầu tìm hoa sim tím chiều hoang biền biệt."

Hữu Loan

LAO ĐỘNG
Vì Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã xúc phạm đến danh dự và tình cảm thiêng liêng của Hữu Loan dành cho người vợ yêu quý, nên Nhà thơ đã quyết định bỏ Ịảng, bỏ cơ quan, bỏ Vê quốc quân về mà không cần xin phép, nạp đơn từ nhiệm.
Ông nói:

" Năm 1956, tôi không ở nữa mà tôi bỏ tôi về thẳng,  bỏ Đảng, bỏ Cơ quan để về thẳng nhà để đi cày, đi thồ.  Cánh ấy (bọn ấy) không cho bỏ, bắt tôi phải xin,  bắt tôi phải viết đơn xin, tôi không xin... tôi có cái tự do của tôi...cái chuyện bỏ Đảng là tôi muốn bỏ là tôi bỏ không ai bắt được....
Tôi bỏ tôi về, tôi cứ về...tôi phải đi cày, đi bừa, đi thồ, đi đốn củi đưa về, đi xe đá để bán thì là nó làm tôi đủ cách, xe nó không cho xe, nó bắt xe đến nỗi sau cuối cùng không xe được tôi phải đi xe cút kít  (Chú thích : Xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ phía trước, có hai càng phìa sau thùng gỗ để đủn hay kéo đi).


Tôi làm cái xe cút kít tôi đi..xe cút kít nó cũng không cho ...nó xui người bắt bánh xe, không bán cho tôi nữa...có lần tôi phải gánh bộ, gánh bằng vai...tôi cũng cứ nhận để tôi gánh..Tôi cứ gánh tôi làm , không bao giờ tôi chịu khuất phục." ".....Vợ con nó có vẻ oán tôi lắm.. (cho rằng) tại tôi bướng bỉnh cho nên là chúng nó khổ...thế nhưng mà tôi làm đủ mọi thứ...không cái gì là không làm chỉ có cái đi làm hại ai là không bao giờ hại còn cái gì tôi cũng làm hết. Làm thì nó theo dõi, nó ngăn cản , nó tìm cách hại mình nhưng mà ...cái chuyện là vẫn là có Trời không bao giờ nó hại được tôi... vì là đi đến đâu cũng có Công an mật đi theo hết. Chỗ nào cũng cho người theo hại tôi, nhưng mà lúc nào là cũng như có người cứu tôi." Có một cái lạ là những bài Thơ của tôi ấy là bài nào là nó cũng cứu sống tôi.  Bởi vì lắm khi người ta bố trí công an mật đi để giết tôi mà thì lắm khi nó không nỡ giết là vì nó thích thơ tôi mà nó không nỡ giết."
Nhà Thơ Hữu Loan đã nói đến trường hợp một mật vụ được giao lệnh giết ông : "Nó nói thật với tôi. Nói đúng là người ta bố trí tôi để giết ông nhưng mà tôi là cái thằng rất yêu Quê hương, yêu với Quê tôi...tôi nhớ Quê tôi tôi đem cái Bài Thơ của ông, cái bài thơ Yên Mô (tỉnh Ninh Bình) đấy để tôi đọc, để cho đỡ nhớ thì tôi không thể nỡ giết ông là vì ông tả cái Quê tôi hay quá. Mỗi một lúc nhớ quê hương thì tôi lại đem cái bài thơ ông làm về Yên Mô ra tôi đọc." Ngoài bài Yên Mô, ông Hữu Loan còn làm nhiều bài Thơ khác trong thời gian đi lao động kiếm ăn, trong đó ông kể thêm các bài Đèo Cả, bài Tò He, bài Những Nàng Đi Qua, bàiHoa Lúa v.v.


TỰ DO VÀ NHÂN VĂN - GIAI PHẨM
Khi nói đến tư cách của Kẻ Sỹ bất khuất trước  đe dọa và bạo quyền, Nhà Thơ Hữu Loan nói với BBC: "Tôi là một thằng thích được tự do mà tôi bảo vệ tự do của tôi với tự do của mình và tự do của dân tộc...tự do của mọi người. Tôi thấy ai mất tự do thì tôi bênh vực cái người ấy và tôi cũng không bao giờ để cho tôi mất tự do. Như là tôi làm những cái mà...bao giờ cũng làm cái đạo đức tức là thương người. Thấy đói thì thương, ai rách thì cho mà ai bị áp bức thì binh vực. Nhưng mà có một cái là không ai áp bức tôi được. Áp bức là tôi chống lạị Chống bất cứ ai mà ngay cả đến cần phải đánh nhau..cả hàng lũ người mà làm tôi mất tự do tôi cũng chống lại và nếu cần đánh là cũng phải đánh."

Hữu Loan, theo lời ông, đã tham gia trực tiếp vào những Giai phẩm Mùa Thu, Giai phẩm Mùa Xuân và Giai phẩm Mùa Đông xuất bản chống chính sách Đảng vào giai đoàn 1955-1956. Ông nói :"Đấy là Nhà xuất bản của chúng tôi làm...của mấy thằng Nhân Văn làm mà. Khi Hương Ly hỏi trong nhóm Nhân Văn Giải Phẩm hồi ấy thì ông chơi thân nhất với ai và ai là người mà ông coi là bạn tri kỷ tâm đắc nhất ? Hữu Loan đáp:" Gần gũi thì đông. Như là Chế Lan Viên này rồi là cánh Nhà văn thì họ thích tôi hết cả. Xuân Diệu hay là... Nói chung thì cánh Nhà văn thì họ đều thích tôi.  Có trừ một vài cái anh bất tài. (Nhiều người) họ cũng chống quân trên, (nhưng) họ không dám nóị Hồi đó thì chúng tôi thành một khối với nhau cả...những Trần Dần với lệ Phùng Quán này ..." Hữu Loan cũng cho biết, ngoài ông đảng CSVN còn thù hận cả gia đình ông, nhất là các con của ông là những người học hành thông minh nhưng cứ nại cớ bắt học đi học lại không cho lên Phổ thong (Trung học).

TRẦN ĐỘ VÀ HỮU LOAN
Khi BBC hỏi tại sao khi ông bị rầy rà, bị nhiều cấp chính quyền tìm cách phá công chuyện làm ăn kiếm sống của mình thì ông có lên Ủy ban hay giới chức để hỏi cho ra lẽ không ? Hữu Loan trả lời :" Hỏi thì hỏi cho biết thôi chứ đến với chúng nó là chửi bới thôi chứ hỏi làm gì. Tôi chỉ có chửi bới vào mặt với đánh thôi. Tôi đánh nhiều đứa vỡ mặt vỡ mũi chảy máu mồm máu mặt đấy." Hương Ly :" Nhưng mà thưa ông, tức là ông dùng bạo lực như thế thì có khi cũng không phải là cái phương cách tốt để mà ngồi xuống nói chuyện, để mà đối thoại với nhau ạ ? Hữu Loan: "Đối thoại có đường cái đồng cánh gì mà đối thoại.  Nó là cứ Đảng là trên hết mà. Đảng là chính. Đối thoại không được chứ.. Đối thoại là nó lại ấy nó không...Những ngươi binh tôi là bị hết. Anh Trần Độ anh ấy binh tôi rồi anh ấy bị nó hãm hại đấỵ Anh có nói như thế này, anh Trần Độ nói như thế này này: Từ thời Nhà Lý thì chọn ra được 11 bài Thơ tình thì trong đấy là cái bài Thơ Màu tím Hoa Sim của ông Loan là cái bài Thơ hay nhất.  Thế là anh Trần Độ ...đề cao tôi như vậy mà nó bao vây  anh Trần Độ, nó không cho làm cái gì."
Nhưng khi được hỏi bây giờ đã sống tới 87 tuổi thì  Nhà thơ "ngẫm nghĩ về cuộc đời của mình" như thế  nào thì Hữu Loan nói ngay:" Tôi rất bằng lòng về tôi  bởi vì tôi đã bênh vực được những người nghèo.  Tôi đã làm được những các chức việc đạo đức mà tôi đã đánh những cái quân gọi là cái quân cường quyền, cái quân mà gọi là lừa đảo, bịp bợm... lừa Trời dối Đất ... Tôi đã đánh được quân ấy cho cả Nước và tôi không có ngơi một lúc nào, không có cách nào, là tôi cũng vẫn kiếm cách để tôi đánh chúng nó...
Thí dụ như khi tôi về rồi (chú thich: sau 1956) thì  thấy cái cảnh Cán bộ khổ quá tôi làm cái bài thơ Chiếc Chiếu đấy. Cái Bài thơ Chiếc Chiếu đấy thì tôi làm ra một cái thì, nghĩ về gần Cán bộ khổ quá, nhà ai cũng vậy chiếc chiếu nằm cũng không có mà nằm... Cán bộ đói đến đến như vậỵ Thế thì là đầu tiên tôi làm cái bài ấy thì Trần Dân cũng bảo là đấy cũng là Chiếu của Văn nghê.. Chiếu của Hữu Loan tức là Chiếu của Văn nghệ Sỹ.
Nhưng mà đến sau này thì cái Chiếu ấy lan ra cả Công nhân, Viên chức. Công nhân, Viên chức nào cũng có cái chiếc chiếu giống như cái chiếc Chiếu mà tôi viết đấy là Chiếu của Hữu Loan đấy." Sau đó, Hữu Loan đã đọc  lại nguyên văn bài thơ Chiếc Chiếu:
"Có ai thấy một người cha 

Từng buổi, từng buổi 
Trước tủ kính cửa hàng mậu dịch dòm như nổ mắt
Tì mũi dẹp như quả bóng xuống hơi 
Thầm đọc đi đọc lại giá hàng từng thứ đồ chơi 
Dù nhiều lần đã hạ giá 
Trong óc nổi bòng bong từng mớ 
Những cơm đến gạo đến quần đến áo 
Những đôi chiếu nằm rách từ giữa rách ra 
Tục ngữ nói rằng những chiếc nhà dột từ nóc trên dột xuống 
Từng sáng mai nhìn gầm giường 
Đốt cói rụng đầy như chiếu rụng đốt xương 
Gió thổi từ dưới thổi lên 
Muỗi cũng đốt từ dưới đốt lên 
Nhưng con đái dầm lại tiện 
Ròng rã mười năm kháng chiến 
Cầm vững hai tay 
Một cái tình thần 
Choảng nhau với súng với bom 
Gian khổ còn ư ? 
Bố con ta lại vung cái tinh thần như tráng sỹ vung gươm 
Chong chóng không quay 
Con vứt đi phụng phịu 
Sáng kiến làm đồ chơi 
Bố thì không thiếu 
Bố lại lấy lá dứa vận cho con cái kèn
Bố thổi nó kêu lên 
Tò he...tò he 
Con đắc trí giật kèn đi thổi khắp Ô Kim Mã 
Tò he...tò he 
Như một thiên sứ hài đồng 
Xuống lệnh điềm tin 
Tò he...tò he... 
Nhớ truyện Đông Chu sao đỏ, sao đen 
Tò he...tò he...

***

PHỤC HỒI CÁI GÌ ?
Nhà Thơ Hữu Loan xác nhận một số Thơ làm về Bộ đội của ông đã được Nhà xuất bản Quân đội chọn xuất bản thành tập cũng như một số bài khác, dù có nội dung "chống đối" hay được coi là "có vấn đề" với Nhà nước đã được Nhà xuất bản Kim Đồng ở Hà Nội in ra, nhưng ông không coi đó là một đặc ân hay nhìn nhận công lao của ông. Ngược lại ông bảo, một phần vì cũng có người "trong cánh ấy" (trong nhóm ấy) biết công nhận Thơ của ông. Hoặc như Nhà Xuất bản Kim Đồng đã viết lời giới thiệu:" Phải đem Thơ ông Loan để dậy cho Thanh thiếu niên học ở đấy cái đạo làm người"
Hữu Loan nói với Hương Ly:" Nhưng mà cái chuyện mà họ đưa ra in ...Nhà xuất bản Kim Đồng in thì đấy là cái to gan rồi đấy vì trước kia là họ không dám.
Cái to gan của trí thức Việt Nam...trí thức Việt Nam vẫn có  cái khí phách mà vẫn đi đến chỗ mà gọi là dám làm những điều phải, dám binh vực cái lẽ phải"
Nhưng còn cái chuyện được gọi là đảng CSVN bây giờ không trù dập nữa hay đã phục hồi nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm thì sao, Nhà thơ Hữu Loan nói về quan điểm của ông:" Cái phục hồi thì họ phục hồi hay không thì tôi cũng thế còn tôi thì cũng cứ vẫn là tôi. Tôi vẫn binh vực .. tôi vẫn làm đấy thôi chứ còn cái phục hồi kia lắm lúc nó cũng chỉ là, coi là lấy cái hình thức thôi. Thí dụ như là họ phục hồi cái kiểu như thế này : Thụy Điển, nước Thụy Điển ấy thì là xin đến thì nó không cho đến sau đến cuối cùng khi ông ta xin nhiều quá thì nó bảo là tôi chết rồi chứ có cho đến đâu. Thế cho nên là sáu lần xin, sáu lần bảo tôi chết đến nỗi lắm... hồi ấy có người ở Hà Nội tưởng tôi chết thật đã viết thư về gọi là viếng cơ mà. Các bạn như Phùng Cung với các người khác ở Hà Nội đã viết thư để viếng. Họ úp mở...tai đến giờ họ có thật thà đâu mà mình ... nghĩa là (họ) không có bao giờ thật thà."
Hương Ly:" Nhưng mà thưa ông là khi mà một số những thành viên trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm mà được phục hồi như vậy đấy thế thì giới chức họ có về gặp ông để mà giống như là ngồi xuống nói chuyện rồi nói rằng là thôi bây giờ cái chuyện cũ đã qua rồi thì bây giờ tất cả những cái gì thuộc về qúa khứ thì bỏ qua một bên hay không ạ ?"
Hữu Loan:"Họ về họ chụp ảnh ấy mà. Họ may cả Xích-Mốc-King (Chú thích : Smoking, loại áo đuôi tôm của đàn ông Tây phương mặc vào các dịp lễ lạc của dân Quý phái, Quý tộc hay dạ tiệc bây giờ), áo lễ phục cho tôi với lại ấy... nhưng mà tôi cũng không... tôi chán chúng nó chẳng qua cũng chỉ là cái hình thức thôi.
Tôi cũng bảo rằng tôi thì tôi sống quê mùa nó quen rồi, chứ còn các thứ áo đây thì các anh đem về cho những người khác bởi vì nếu bây giờ tôi mặc thì dân chúng chắc là họ lại kháo nhau bảo là cái ông này ngày trước có vẻ mẫu mực lắm , nhưng bây giờ có vẻ là lại được tí như bổng lộc gì đấy lại đi...gọi là đi theo"
Đó là con người và bản tính bất khuất của một Nhà Thơ nổi tiếng của Văn học Việt Nam. Hữu Loan còn các bút hiệu khác như Phương Hữu và Hữu Sinh. Ông xuất thân từ một giáo chức dạy Pháp văn năm 1939 và đã từng tham gia cướp chính quyền ở tỉnh Thanh Hóa tháng 8-1945.
Từ năm 1946 đến 1951, ông trong Ban Biên tập chủ lực Tạp chí Chiến Sĩ Quân khu 4. Nơi đây Hữu Loan gặp tướng Nguyễn Sơn là một trong số những người yêu quý Văn nghệ sỹ kháng chiến. Sau đó, ông đã từng giữ nhiều chức vụ huấn luyện cán bộ khác nhau cho đến khi Hữu Loan tham gia chống Đảng trong hai Tạp chí Nhân Văn và Đất Mới. Sau khi bị Hồ Chí Minh và tay sai Văn nghê.-Công an đàn áp, Hữu Loan đã chịu chung số phận với nhiều Văn nghệ sỹ khác bị tù đầy và lao động khổ sai, có người cho đến chết.
Bây giờ, 48 năm sau kể từ 1954, mặc dù Việt Nam đang cố gắngđi lên trong thời kỳ được gọi là "đổi mới tư duy" nhưng đảng CSVN và đám hậu duệ Hồ Chí Minh vẫn chưa biết hối hận về hậu quả của những hành động đàn áp trí thức và Văn nghệ sỹ của thời Nhân văn - Giai phẩm. Ngược lại họ vẫn tiếp tục đi vào vết xe đổ bằng những đe dọa hung hãn hơn. -/-
Phạm Trần (10/2002)
(*Tựa do Gió O đặt. Tài liệu do gio-o.com sưu tầm và lưu trữ, 2002, 2010)

"

http://www.gio-o.com/chutruongHuuLoan.html

4. Bản lưu của trang Quê hương ta (không rõ năm tháng post)


"
Hữu Loan 1916 - 2010
"tôi bảo vệ tự do của tôi...
và tự do của dân tộc...
tự do của mọi người."*
Buổi phỏng vấn thứ nhất
Buổi phỏng vấn thứ nhì

- Hỏi: "Thưa ông, nhưng mà ông ở trong quê như vậy thì ông có theo dõi những cái tình hình chung của đất nước không ạ? "
- Đáp: "Có chứ, tôi theo dõi chứ. Tôi theo dõi những cái tình hình chung của đất nước bây giờ là lừa đảo rối bét, ăn tham bẩn nhất là thằng nào cũng lợi dụng trèo đầu cỡi cổ thằng dân chứ có cái gì đâu, tức là cái đảng Cộng sản đấy.Cái đảng Cộng sản mà còn lãnh đạo thì còn rối bét, không có ai là gương mẫu hết."

Hỏi: "Thưa ông, ông có là thành viên của Hội Nhà văn Việt Nam không ạ?" 
Đáp: "Có chứ. Tội có cần thành viên đâu mà họ lại tha thiết để mờị Tôi xin ra cả Hội Nhà văn và xin ra cả đảng mà không được đấy chứ."

Đó là đoạn đối thoại thời sự nổi bật nhất giữa Hương Ly, phóng viên BBC tiếng Việt và Nhà thơ Hữu Loan trong cuộc phỏng vấn phát thanh ngày 12-10-2002. Cuộc phỏng vấn hiếm hoi của Ban Việt ngữ BBC được chia làm hai phần :
Phần I (ngày 5-10-02) nói về nguồn gốc của Tác phẩm Mầu Tím Hoa Sim và những hệ lụy của bài Thơ này đối với tính mạng và cuộc sống thăng trầm từ một Nhà thơ nổi tiếng tụt xuống hàng lao động và nông dân bần cùng của Nhà thơ Hữu Loan.
Và phần II (12-10-02) Nhà thơ Hữu Loan nói về nhóm Nhân văn - Giai phẩm cùng cuộc sống cơ hàn và những âm mưu ám sát, chế ngự đối với ông và gia đình ông của đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1956 đến bây giờ.
Năm nay ông Hữu Loan 87 tuổi ta (sinh ngày 2-4-1916), đang "ở nhà trông vườn"ở làng Nguyên Hoàn -- nơi ông gọi là chỗ "quê đẻ của tôi đấỷ"thuộc Xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóạ Tuy đã lớn tuổi, nhưng giọng nói của Nhà thơ rất rõ ràng, khúc chiết và đanh thép như khi ông còn thanh niên. Nhà Thơ Hữu Loan còn có một trí nhớ phi thường vì phần lớn cuộc đời ông đã phải chịu những đầy ải lao động cực hình giáng xuống đầu ông và gia đình ông bởi cái đảng mà ông đã đem hết tinh thần và sức lực phục vụ trong thời kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, dù gian khổ và chết hụt nhiều lần, Hữu Loan vẫn không bao giờ chịu quỵ lụy hay khuất phục bọn cường quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN). Khí phách hiên ngang của một Hữu Loan trí thức đã tỏa rộng trong cuộc phỏng vấn với BBC-Vietnamese Program.
TÔI KHÔNG QUỴ LỤY ĐƯỢC
Được hỏi "Tại sao từ chỗ một Nhà thơ mà bây giờ lại về quê  làm nông?", Hữu Loan đáp: "Cái tính tôi không chịu quỵ lụy được.  Bởi vì (hồi ấy) ra làm ở ngoài Trung Ương thì bắt phải theo Cộng sản nên tôi bỏ tôi về. Tôi bỏ về nó không cho về... Nó làm tôi tam tình, tứ tội, làm đủ cách để thủ tiêu nhưng mà tôi vẫn tin là tôi có sự che chở của Trời - Phật cho nên không thủ tiêu nổi, bao nhiều lần đầu độc không xong... "
Cái thời mà Nhà thơ Hữu Loan nói là vào thời kỳ hai năm 1955 - 1956 khi phong trào Văn nghệ sỹ chống Đảng bắt đầu bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đảng trị coi trí thức như cục phân, tham nhũng thối nát của cán bộ lãnh đạo, và đồng thời chống những Văn nghệ sỹ bồi bút đang tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca tụng Đảng và Hồ Chí Minh.
Trong số này đứng đầu là Tố Hữu rồi đến Vũ Khiêu, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu v.v. Phóng viên Hương Ly đã so sánh nghịch cảnh giữa những lời ca tụng của mọi người Việt Nam vào thời gian lúc ấy và ngay cả bây giờ đã dành cho Tác giả của Mầu Tím Hoa Sim với những hoạn nạn mà Hữu Loan phải gánh chịu, sau bài Thơ nàỵ Nhà thơ Hữu Loan cho biết lý do tại sao ông bị trù dập vì Mầu Tím Hoa Sim:
"Bởi vì người ta làm Thơ lúc bấy giờ là phải làm về Đảng, ca tụng Đảng, ca tụng Cộng sản, ca tụng cái buôn bán chiến tranh. Bởi vì cái đánh nhau là cái dễ kiếm chác lắm. Mà kiếm chác ở cái chiến tranh ấy thì khó kiểm tra lắm cho nên những cái bọn ăn bẩn ấy là bao giờ cũng chủ trương chiến tranh, buôn bán chiến tranh. Mà tôi thì tôi thấy cái đấy là cái khổ dân nhất nên tôi chống cái ấy hết sức cho nên vì vậy nên tôi làm cái bài Thơ lúc giờ ta đang một tí là người ta đề cao Hồ Chí Minh, hai tí là đề cao Hồ Chí Minh... lúc đó tôi đề cao cái Tình yêu... đề cao, tôi khóc cái người Vợ tử tế với mình, hiếm có của mình. Lúc đó khóc như vậy là nó cho là khóc cái tình cảm riêng... Lúc bầy giờ làm Thơ là phải có Hồ Chí Minh, có Đảng Cộng sản."
"Tôi làm vào cái lúc mà -- y như trong Thơ nói đấy -- tôi lấy bà Vợ rồi sau tôi đi vào Bộ đội thì ở nhà Bà ấy đi giặt Bà ấy chết đuối ở sông... Mới lấy nhau được có hơn tháng ấy mà... Thế rồi Bà ấy chết ở sông... tôi thấy đau xót tôi làm cái bài Thơ ấy tôi khóc. Làm cái bài Thơ ấy lúc bấy giờ họ cho là "phản động"... Lúc bấy giờ làm Thơ là phải làm về Cộng sản, làm về Bác Hồ chứ không được khóc cái đau riêng của mình... Cái đau khổ riêng của con người là không được khóc."
MẦU TÍM HOA SIM  
Sau đó, Hương Ly đã yêu cầu ông đọc bài thơ Mầu Tím Hoa Sim và Hữu Loan đã dằn lòng đọc ngắt ra từng chữ một, phân đoạn và run run như tức tưởi sững sờ trước mộ phần người vợ trẻ bạc số của ông:

"Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ bẻ bỏng chiều quê
**
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
Năm chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng mầu tím hoa sim
Ngày xưa đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa
**
Một chiều rừng mưa
Ba người anh bị chiến trường đông bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
Cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Mầu tìm hoa sim tím chiều hoang biền biệt."
Hữu Loan
LAO ĐỘNG
Vì Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã xúc phạm đến danh dự và tình cảm thiêng liêng của Hữu Loan dành cho người vợ yêu quý, nên Nhà thơ đã quyết định bỏ Ịảng, bỏ cơ quan, bỏ Vê quốc quân về mà không cần xin phép, nạp đơn từ nhiệm.
Ông nói:
"Năm 1956, tôi không ở nữa mà tôi bỏ tôi về thẳng,  bỏ Đảng, bỏ Cơ quan để về thẳng nhà để đi cày, đi thồ.  Cánh ấy (bọn ấy) không cho bỏ, bắt tôi phải xin,  bắt tôi phải viết đơn xin, tôi không xin... tôi có cái tự do của tôi... cái chuyện bỏ Đảng là tôi muốn bỏ là tôi bỏ không ai bắt được... .
Tôi bỏ tôi về, tôi cứ về... tôi phải đi cày, đi bừa, đi thồ, đi đốn củi đưa về, đi xe đá để bán thì là nó làm tôi đủ cách, xe nó không cho xe, nó bắt xe đến nỗi sau cuối cùng không xe được tôi phải đi xe cút kít  (Chú thích : Xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ phía trước, có hai càng phìa sau thùng gỗ để đủn hay kéo đi).

Tôi làm cái xe cút kít tôi đi..xe cút kít nó cũng không cho... nó xui người bắt bánh xe, không bán cho tôi nữa... có lần tôi phải gánh bộ, gánh bằng vai... tôi cũng cứ nhận để tôi gánh..Tôi cứ gánh tôi làm, không bao giờ tôi chịu khuất phục.""... ..Vợ con nó có vẻ oán tôi lắm.. (cho rằng) tại tôi bướng bỉnh cho nên là chúng nó khổ... thế nhưng mà tôi làm đủ mọi thứ... không cái gì là không làm chỉ có cái đi làm hại ai là không bao giờ hại còn cái gì tôi cũng làm hết. Làm thì nó theo dõi, nó ngăn cản, nó tìm cách hại mình nhưng mà... cái chuyện là vẫn là có Trời không bao giờ nó hại được tôi... vì là đi đến đâu cũng có Công an mật đi theo hết. Chỗ nào cũng cho người theo hại tôi, nhưng mà lúc nào là cũng như có người cứu tôi."Có một cái lạ là những bài Thơ của tôi ấy là bài nào là nó cũng cứu sống tôi.  Bởi vì lắm khi người ta bố trí công an mật đi để giết tôi mà thì lắm khi nó không nỡ giết là vì nó thích thơ tôi mà nó không nỡ giết."
Nhà Thơ Hữu Loan đã nói đến trường hợp một mật vụ được giao lệnh giết ông : "Nó nói thật với tôi. Nói đúng là người ta bố trí tôi để giết ông nhưng mà tôi là cái thằng rất yêu Quê hương, yêu với Quê tôi... tôi nhớ Quê tôi tôi đem cái Bài Thơ của ông, cái bài thơ Yên Mô (tỉnh Ninh Bình) đấy để tôi đọc, để cho đỡ nhớ thì tôi không thể nỡ giết ông là vì ông tả cái Quê tôi hay quá. Mỗi một lúc nhớ quê hương thì tôi lại đem cái bài thơ ông làm về Yên Mô ra tôi đọc."Ngoài bài Yên Mô, ông Hữu Loan còn làm nhiều bài Thơ khác trong thời gian đi lao động kiếm ăn, trong đó ông kể thêm các bài Đèo Cả, bài Tò He, bài Những Nàng Đi Qua, bài Hoa Lúa v.v.

TỰ DO VÀ NHÂN VĂN - GIAI PHẨM
 Khi nói đến tư cách của Kẻ Sỹ bất khuất trước  đe dọa và bạo quyền, Nhà Thơ Hữu Loan nói với BBC: "Tôi là một thằng thích được tự do mà tôi bảo vệ tự do của tôi với tự do của mình và tự do của dân tộc... tự do của mọi người. Tôi thấy ai mất tự do thì tôi bênh vực cái người ấy và tôi cũng không bao giờ để cho tôi mất tự do. Như là tôi làm những cái mà... bao giờ cũng làm cái đạo đức tức là thương người. Thấy đói thì thương, ai rách thì cho mà ai bị áp bức thì binh vực. Nhưng mà có một cái là không ai áp bức tôi được. Áp bức là tôi chống lạị Chống bất cứ ai mà ngay cả đến cần phải đánh nhau..cả hàng lũ người mà làm tôi mất tự do tôi cũng chống lại và nếu cần đánh là cũng phải đánh."
Hữu Loan, theo lời ông, đã tham gia trực tiếp vào những Giai phẩm Mùa Thu, Giai phẩm Mùa Xuân và Giai phẩm Mùa Đông xuất bản chống chính sách Đảng vào giai đoàn 1955-1956. Ông nói : "Đấy là Nhà xuất bản của chúng tôi làm... của mấy thằng Nhân Văn làm mà. Khi Hương Ly hỏi trong nhóm Nhân Văn Giải Phẩm hồi ấy thì ông chơi thân nhất với ai và ai là người mà ông coi là bạn tri kỷ tâm đắc nhất? Hữu Loan đáp: "Gần gũi thì đông. Như là Chế Lan Viên này rồi là cánh Nhà văn thì họ thích tôi hết cả. Xuân Diệu hay là... Nói chung thì cánh Nhà văn thì họ đều thích tôi.  Có trừ một vài cái anh bất tài. (Nhiều người) họ cũng chống quân trên, (nhưng) họ không dám nóị Hồi đó thì chúng tôi thành một khối với nhau cả... những Trần Dần với lệ Phùng Quán này... "Hữu Loan cũng cho biết, ngoài ông đảng CSVN còn thù hận cả gia đình ông, nhất là các con của ông là những người học hành thông minh nhưng cứ nại cớ bắt học đi học lại không cho lên Phổ thong (Trung học).
TRẦN ĐỘ VÀ HỮU LOAN
Khi BBC hỏi tại sao khi ông bị rầy rà, bị nhiều cấp chính quyền tìm cách phá công chuyện làm ăn kiếm sống của mình thì ông có lên Ủy ban hay giới chức để hỏi cho ra lẽ không? Hữu Loan trả lời : "Hỏi thì hỏi cho biết thôi chứ đến với chúng nó là chửi bới thôi chứ hỏi làm gì. Tôi chỉ có chửi bới vào mặt với đánh thôi. Tôi đánh nhiều đứa vỡ mặt vỡ mũi chảy máu mồm máu mặt đấy.
Hương Ly: "Nhưng mà thưa ông, tức là ông dùng bạo lực như thế thì có khi cũng không phải là cái phương cách tốt để mà ngồi xuống nói chuyện, để mà đối thoại với nhau ạ?
Hữu Loan: "Đối thoại có đường cái đồng cánh gì mà đối thoại.  Nó là cứ Đảng là trên hết mà. Đảng là chính. Đối thoại không được chứ.. Đối thoại là nó lại ấy nó không... Những ngươi binh tôi là bị hết. Anh Trần Độ anh ấy binh tôi rồi anh ấy bị nó hãm hại đấỵ  Anh có nói như thế này, anh Trần Độ nói như thế này này: Từ thời Nhà Lý thì chọn ra được 11 bài Thơ tình thì trong đấy là cái bài Thơ Màu tím Hoa Sim của ông Loan là cái bài Thơ hay nhất.  Thế là anh Trần Độ... đề cao tôi như vậy mà nó bao vây  anh Trần Độ, nó không cho làm cái gì."
Nhưng khi được hỏi bây giờ đã sống tới 87 tuổi thì  Nhà thơ "ngẫm nghĩ về cuộc đời của mình" như thế  nào thì Hữu Loan nói ngay: "Tôi rất bằng lòng về tôi  bởi vì tôi đã bênh vực được những người nghèo.  Tôi đã làm được những các chức việc đạo đức mà tôi đã đánh những cái quân gọi là cái quân cường quyền, cái quân mà gọi là lừa đảo, bịp bợm... lừa Trời dối Đất... Tôi đã đánh được quân ấy cho cả Nước và tôi không có ngơi một lúc nào, không có cách nào, là tôi cũng vẫn kiếm cách để tôi đánh chúng nó...
Thí dụ như khi tôi về rồi (chú thich: sau 1956) thì  thấy cái cảnh Cán bộ khổ quá tôi làm cái bài thơChiếc Chiếu đấy. Cái Bài thơ Chiếc Chiếu đấy thì tôi làm ra một cái thì, nghĩ về gần Cán bộ khổ quá, nhà ai cũng vậy chiếc chiếu nằm cũng không có mà nằm... Cán bộ đói đến đến như vậỵ Thế thì là đầu tiên tôi làm cái bài ấy thì Trần Dân cũng bảo là đấy cũng là Chiếu của Văn nghê.. Chiếu của Hữu Loan tức là Chiếu của Văn nghệ Sỹ.
Nhưng mà đến sau này thì cái Chiếu ấy lan ra cả Công nhân, Viên chức. Công nhân, Viên chức nào cũng có cái chiếc chiếu giống như cái chiếc Chiếu mà tôi viết đấy là Chiếu của Hữu Loan đấy."Sau đó, Hữu Loan đã đọc  lại nguyên văn bài thơ Chiếc Chiếu:
"Có ai thấy một người cha
Từng buổi, từng buổi
Trước tủ kính cửa hàng mậu dịch dòm như nổ mắt
Tì mũi dẹp như quả bóng xuống hơi
Thầm đọc đi đọc lại giá hàng từng thứ đồ chơi
Dù nhiều lần đã hạ giá
Trong óc nổi bòng bong từng mớ
Những cơm đến gạo đến quần đến áo
Những đôi chiếu nằm rách từ giữa rách ra
Tục ngữ nói rằng những chiếc nhà dột từ nóc trên dột xuống
Từng sáng mai nhìn gầm giường
Đốt cói rụng đầy như chiếu rụng đốt xương
Gió thổi từ dưới thổi lên
Muỗi cũng đốt từ dưới đốt lên
Nhưng con đái dầm lại tiện
Ròng rã mười năm kháng chiến
Cầm vững hai tay
Một cái tình thần
Choảng nhau với súng với bom
Gian khổ còn ư?
Bố con ta lại vung cái tinh thần như tráng sỹ vung gươm
Chong chóng không quay
Con vứt đi phụng phịu
Sáng kiến làm đồ chơi
Bố thì không thiếu
Bố lại lấy lá dứa vận cho con cái kèn
Bố thổi nó kêu lên
Tò he... tò he
Con đắc trí giật kèn đi thổi khắp Ô Kim Mã
Tò he... tò he
Như một thiên sứ hài đồng
Xuống lệnh điềm tin
Tò he... tò he...
Nhớ truyện Đông Chu sao đỏ, sao đen
Tò he... tò he..
.
PHỤC HỒI CÁI GÌ?
Nhà Thơ Hữu Loan xác nhận một số Thơ làm về Bộ đội của ông đã được Nhà xuất bản Quân đội chọn xuất bản thành tập cũng như một số bài khác, dù có nội dung "chống đối"hay được coi là "có vấn đề"với Nhà nước đã được Nhà xuất bản Kim Đồng ở Hà Nội in ra, nhưng ông không coi đó là một đặc ân hay nhìn nhận công lao của ông. Ngược lại ông bảo, một phần vì cũng có người "trong cánh ấy"(trong nhóm ấy) biết công nhận Thơ của ông. Hoặc như Nhà Xuất bản Kim Đồng đã viết lời giới thiệu: "Phải đem Thơ ông Loan để dậy cho Thanh thiếu niên học ở đấy cái đạo làm người"
Hữu Loan nói với Hương Ly: "Nhưng mà cái chuyện mà họ đưa ra in... Nhà xuất bản Kim Đồng in thì đấy là cái to gan rồi đấy vì trước kia là họ không dám.
Cái to gan của trí thức Việt Nam... trí thức Việt Nam vẫn có  cái khí phách mà vẫn đi đến chỗ mà gọi là dám làm những điều phải, dám binh vực cái lẽ phải"
Nhưng còn cái chuyện được gọi là đảng CSVN bây giờ không trù dập nữa hay đã phục hồi nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm thì sao, Nhà thơ Hữu Loan nói về quan điểm của ông: "Cái phục hồi thì họ phục hồi hay không thì tôi cũng thế còn tôi thì cũng cứ vẫn là tôi. Tôi vẫn binh vực .. tôi vẫn làm đấy thôi chứ còn cái phục hồi kia lắm lúc nó cũng chỉ là, coi là lấy cái hình thức thôi. Thí dụ như là họ phục hồi cái kiểu như thế này : Thụy Điển, nước Thụy Điển ấy thì là xin đến thì nó không cho đến sau đến cuối cùng khi ông ta xin nhiều quá thì nó bảo là tôi chết rồi chứ có cho đến đâu. Thế cho nên là sáu lần xin, sáu lần bảo tôi chết đến nỗi lắm... hồi ấy có người ở Hà Nội tưởng tôi chết thật đã viết thư về gọi là viếng cơ mà. Các bạn như Phùng Cung với các người khác ở Hà Nội đã viết thư để viếng. Họ úp mở... tai đến giờ họ có thật thà đâu mà mình... nghĩa là (họ) không có bao giờ thật thà."
Hương Ly: "Nhưng mà thưa ông là khi mà một số những thành viên trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm mà được phục hồi như vậy đấy thế thì giới chức họ có về gặp ông để mà giống như là ngồi xuống nói chuyện rồi nói rằng là thôi bây giờ cái chuyện cũ đã qua rồi thì bây giờ tất cả những cái gì thuộc về qúa khứ thì bỏ qua một bên hay không ạ?"
Hữu Loan: "Họ về họ chụp ảnh ấy mà. Họ may cả Xích-Mốc-King (Chú thích : Smoking, loại áo đuôi tôm của đàn ông Tây phương mặc vào các dịp lễ lạc của dân Quý phái, Quý tộc hay dạ tiệc bây giờ), áo lễ phục cho tôi với lại ấy... nhưng mà tôi cũng không... tôi chán chúng nó chẳng qua cũng chỉ là cái hình thức thôi.
Tôi cũng bảo rằng tôi thì tôi sống quê mùa nó quen rồi, chứ còn các thứ áo đây thì các anh đem về cho những người khác bởi vì nếu bây giờ tôi mặc thì dân chúng chắc là họ lại kháo nhau bảo là cái ông này ngày trước có vẻ mẫu mực lắm, nhưng bây giờ có vẻ là lại được tí như bổng lộc gì đấy lại đi... gọi là đi theo"
Đó là con người và bản tính bất khuất của một Nhà Thơ nổi tiếng của Văn học Việt Nam. Hữu Loan còn các bút hiệu khác như Phương Hữu và Hữu Sinh. Ông xuất thân từ một giáo chức dạy Pháp văn năm 1939 và đã từng tham gia cướp chính quyền ở tỉnh Thanh Hóa tháng 8-1945.
Từ năm 1946 đến 1951, ông trong Ban Biên tập chủ lực Tạp chí Chiến Sĩ Quân khu 4. Nơi đây Hữu Loan gặp tướng Nguyễn Sơn là một trong số những người yêu quý Văn nghệ sỹ kháng chiến. Sau đó, ông đã từng giữ nhiều chức vụ huấn luyện cán bộ khác nhau cho đến khi Hữu Loan tham gia chống Đảng trong hai Tạp chí Nhân Văn và Đất Mới. Sau khi bị Hồ Chí Minh và tay sai Văn nghê.-Công an đàn áp, Hữu Loan đã chịu chung số phận với nhiều Văn nghệ sỹ khác bị tù đầy và lao động khổ sai, có người cho đến chết.
Bây giờ, 48 năm sau kể từ 1954, mặc dù Việt Nam đang cố gắngđi lên trong thời kỳ được gọi là "đổi mới tư duy"nhưng đảng CSVN và đám hậu duệ Hồ Chí Minh vẫn chưa biết hối hận về hậu quả của những hành động đàn áp trí thức và Văn nghệ sỹ của thời Nhân văn - Giai phẩm. Ngược lại họ vẫn tiếp tục đi vào vết xe đổ bằng những đe dọa hung hãn hơn. -/-
Phạm Trần (10/2002)
"



"
"
5. Bản lưu đã thực hiện năm 2014 của trưởng lão Thợ Cạo

"

THỨ NĂM, NGÀY 25 THÁNG 9 NĂM 2014

Về bài gốc Màu tím hoa sim & Tự thuật của Hữu Loan

 
được tán phát trên mạng với những dị bản, câu hỏi đặt ra: đâu là bản gốc bài thơ và liệu nhà thơ có nói như thế không?
Mới rồi, báo mạng Petrotimes trích đăng những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan, tuy cắt bớt những đoạn nhạy cảm chính trị thay bằng dấu ... được vậy cũng đáng hoan nghênh tinh thần dũng cảm của tác giả bài viết và TBT báo dám công bố phần nào sự thật.

Về bài thơ, 
Có những chữ thay đổi thêm bớt, tuy nhiên không trái với tinh thần nội dung. Hữu Loan sáng tác, được phổ biến trước 1975, nguyên thủy, bắt đầu từ:
Nàng có ba người anh đi bộ đội
.....
kết thúc:
“Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu”


Mãi đến sau này (có thể là từ 2002), nhà thơ chỉnh sửa, viết thêm (có thể một số lần nên sinh ra nhiều dị bản. Xem thêm: Hữu Loan và bài thơ tình nổi tiếng: Điều ít biết về 'Màu tím hoa sim'
Dưới đây là bản công bố năm 2004:

Bản chép tay (2004) có chữ ký của nhà thơ Hữu Loan: 



Màu tím hoa sim
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...

Bản trên do Công ty Vitek VTB mua tác quyền, công bố (Tuoitre)

Xem thêm bài “Màu Tím Hoa Sim bản nào là đúng nhất?”
Bài Màu Tím Hoa Sim  Hữu Loan chép tặng kiều báo Úc  (2/1988)

Về tự thuật

Hai websie hải ngoại đăng từ lâu, không còn nguồn, dẫn lại từ trang khác:
Danchimviet: Lời tự thuật của tác giả bài thơ "Màu Tím Hoa Sim"
Thongluan: Tự truyện của nhà thơ Hữu Loan

Đối chiếu với chính từ miệng nhà thơ Hữu Loan
Theo Nguyen Nguyen - người post 5 clip lên youtupe, giới thiệu... đã thu lại từ user vietnamexodus nay không còn nữa. Tác giả phỏng vấn (cố) Thi sĩ Hữu Loan vào giữa tháng 3 năm 2000 tại nhà riêng của ông.
(phần 5 có cảnh nhà và sinh hoạt gia đình nhà thơ Hữu Loan)
    

Nhà thơ Hữu Loan kể với Hương Ly do đài BBC London thực hiện năm 2002:
http://www.gio-o.com/HuuLoan1.mp3
http://www.gio-o.com/HuuLoan2.mp3 
_____________
Thợ cạo tổng hợp

Xem thêm: Fddinh

"
http://nguoidongbang.blogspot.jp/2014/09/ve-bai-goc-mau-tim-hoa-sim-tu-thuat-cua.html




6. Bản lưu thực hiện năm 2013 của Mr. Khoằm

"

19 tháng 3 2013

MÀU TÍM HOA SIM

Màu tím hoa sim
HỮU LOAN
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu… Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…
LỜI TỰ THUẬT CỦA HỮU LOAN: VỀ BÀI THƠ MÀU TÍM HOA SIM
“Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hoá, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938, lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khoá ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và … Tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hoá để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khoá đầu tiên. Ở Thanh Hoá, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí : ‘ Em chào thầy ạ’. Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết.
Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một ‘bà cụ non’. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo : em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn ; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …
Có lần tôi kể chuyện « bà cụ non » ít nói cho 2 người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận ! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành … Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ … Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý : « mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu » Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi :
– Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi : tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ … Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
– Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ : « Ngọt quá ».
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế !
Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì … tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi … Tôi quay đầu nhìn lại … em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa …
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp …
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ, ï vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm « soạn kịch bản ».
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là :’yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả’. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay … lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hoá của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại … Nếu như 9 năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ : vợ tôi qua đời ! Em chết thật thảm thương : Hôm đó là ngày 25/05 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối ! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi …
Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn … Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh …
… Tôi về không gặp nàng …
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hoá … Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02/04/1916 hiện tại đang « ở nhà trông vườn » ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ « quê đẻ của tôi đấy » thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu:
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi’ hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi’. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955-1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì ! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng …
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn 1 tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông … Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào ? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc ?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được ! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có 2 cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi … Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi ! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm !
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954-1955.
Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần 500 mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại 2 cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ, nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no … Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa !
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.
Năm 1988, tôi « tái xuất giang hồ » sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần 1 năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản Văn hoá. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia « lộc » cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán…”.
Nhà Thơ HỮU LOAN
Trang đầu bản thảo “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan
Trong thi ca Việt Nam, có lẽ bài thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan là bài thơ được phổ nhạc nhiều nhất, và có lẽ thành công nhất và cũng giữ được tính bi tráng của bài thơ nhiều nhất là bản “Áo anh sút chỉ đường tà” của nhạc sỹ Phạm Duy.

Ảnh: hcmutrans.edu.v





Dzũng Chinh và Những Đồi Hoa Sim
Dzũng Chinh tên thật là Nguyễn Bá Chính (một số tài liệu ghi là Nguyễn Văn Chính). Khi sáng tác bản nhạc Những đồi hoa sim, Dzũng Chinh còn đang là sinh viên Luật khoa Sài Gòn. Sau khi bài này nổi tiếng với tiếng hát của “con nhạn trắng Gò Công” Phương Dung (1961-1962), Dzũng Chinh đi quân dịch vào năm 1965. Ngoài bản nhạc “Những đồi hoa sim”, Dzũng Chinh còn phổ một số bài khác như “Tha La xóm đạo” (thơ Vũ Anh Khanh), “Các anh đi” (tác giả Hoàng Trung Thông), v..v…

Có lẽ chán nản với cấp bực trung sĩ, Dzũng Chinh xin học khóa sĩ quan. Khi được điều động về Trà Vinh, nhạc sĩ Trúc Phương viết bài Để trả lời một câu hỏi tặng Dzũng Chinh. Dzũng Chinh tử trận ngày 1/3/1969 với cấp bậc cuối cùng là Thiếu úy. Người bạn của Dzũng Chinh là nhạc sĩ Thanh Sơn nghe tin bạn mình mất có viết bài hát Đọc tin trên báo, thâu vào đĩa nhựa Thiên Thai 45 do Trúc Ly ca.
Ảnh hcmutrans.edu.vn



ĐÔI CHUYỆN BÊN LỀ
Ngày Dzũng Chinh phổ biến bản nhạc này, lúc đó ông đang còn là sinh viên Luật khoa Saigon, với cái tên cha sinh mẹ đẻ là Nguyễn Bá Chinh. Sau khi bản nhạc nổi tiếng qua tiếng hát của ca sĩ Phương Dung (khoảng 1961-62), ông phải vào lính, khóa mấy Thủ Đức thì tại hạ không nhớ….Tốt nghiệp, ông được điều xuống miền Tây, và trong một chuyến công tác, xe ông bị trúng mìn trên QL 4, chuẩn úy Nguyễn Bá Chinh chết, được đưa về nghĩa trang quân đội Gò Vấp với bia ký là “Cố Thiếu úy Nguyễn Bá Chinh”. Ngoài bản nhạc “Những đồi hoa sim”, ông còn nổi tiếng với bản “Tha La xóm đạo” (thơ Vũ Anh Khanh).
Sau khi tàu hỏa Thống Nhất chạy được vài chuyến (1976), thì Hữu Loan đã vào Nam thăm thân nhân trên chuyến tàu này. Khi xuống ga Saigon, ông tình cờ nghe một giọng hát những lời có phần….quen quen. Tìm, thì thấy một người ăn mày….cụt chân (khiếm cước cái bang) đang ôm cây Ghi-ta cũ mèm ngồi ở góc sân ga, đang dạo và hát rất đúng nhịp bài hát của Dzũng Chinh. Hữu Loan ngồi nghe hết bản nhạc, rồi mới gợi chuyện, hỏi người hát rong ấy về bản nhạc và nguyên nhân nào làm anh cụt chân, người kia trả lời “…bị thương ở trận Bình Long anh dũng….”
Hữu Loan ái ngại, và yêu cầu anh kia hát lại, ông ngồi nghe hết bản nhạc rồi đứng dậy, móc hết tiền còn trong túi đưa cho “người nghệ sĩ nghèo”, kèm theo lời cảm ơn và nói cho anh nghe “…Tôi là tác giả bài thơ đó !”
Ông bỏ đi trong sự ngẩn ngơ của người ăn xin…….
Nguồn: http://my.opera.com/diemxuacafe/blog/dzung-chinh

‘Màu tím hoa sim’ do nhạc sỹ Duy Khánh và Trọng Khương phổ nhạc. Ảnh hcmutrans.edu.vn



Màu Tím Hoa Sim do nhạc sỹ Song Ngọc phổ nhạc. Ảnh hcmutrans.edu.vn




Thủ bút của nhà thơ Hữu Loan, viết lại bài Màu Tím Hoa Sim, “khóc vợ Lê Ðỗ Thị Ninh” (Hình: Viên Linh)
Hữu Loan sống một mình ở hành tinh chết xa xôi?
18 Tháng 3
Phạm Thành
(Viết nhân ngày đưa tang Hữu Loan).
Ngày 4.5.1975 đơn vị vận tải quân đội, Tỉểu đoàn 672 của chúng tôi có mặt tại Sài Gòn sau các đơn vị chiến đấu 4 ngày và trú quân tại Bộ Tổng Tham mưu của chính quyền cũ trên đường Võ Di Nguy, quận Phú Nhuận. Tôi và hai người bạn (Thành, quê Vĩnh Yên và Hùng, quê Hải Dương) vượt rào đi dạo Sài Gòn sau ngày đại thắng. Một thiếu nữ Sài Gòn, tên Nguyễn Kim Hải, sinh viên năm thứ 2 Văn khoa Sài Gòn, mời chúng tôi vào nhà em chơi. Nhà em ở phố Thích Quảng Đức. Tại nhà em, lần đầu tiên trong đời, tôi được nghe bài hát qua băng cát-xet và cũng là lần đầu tiên nghe bài hát “Màu tím hoa sim” do Khánh Ly hát. Em mở băng thật to và Khánh Ly giọng cũng thật vang. Lời hát đau đớn não nùng đến sợ, đọng lại ngay trong tôi là câu: “Nhưng không chết chàng trai khói lửa mà chết người gái nhỏ hậu phương, hỡi ôi” và một mớ ngôn ngữ lạ lẫm “Tím chiều hoang biền biệt. Đồi hoa sim tím”. Nghe xong, tôi thấy cô sinh viên Kim Hải ngấn lệ trên mắt, tuy nhiên chúng tôi thì chỉ có chút bồi hồi. Có lẽ chúng tôi còn trẻ, vừa ở rừng về, và lại đang phấn khích trong hào khí chiến thắng, nên chưa thể hiểu được những cái đau nội tâm đứt ruột trong cuộc đời, đâm ra thờ ơ vô cảm trước ngôn ngữ sâu thẳm bên trong của bản nhạc.
Sau đó tôi giải ngũ, về làm phóng viên Đài Phát thanh tỉnh Thanh Hóa (hơn 4 năm), rồi đi học Đại học Báo chí tại Trường Tuyên Giáo trung ương (hơn 4 năm). Học xong tôi về làm phóng viên ở Đài TNVN cho đến nay. Khi đang học, “Nhưng không chết chàng trai khói lửa mà chết người gái nhỏ hậu phương và “Tím chiều hoang biền biệt”, được các thầy giáo cho biết, đó là câu trong bài thơ Màu tím hoa sim của tác giả người Thanh Hóa thuộc nhóm phản động, chống đảng: Nhân văn – Giai phẩm. Khi làm báo, lại làm ở cơ quan tuyên truyền trung ương, cứ nghĩ đến chữ phản động, chống đảng là tai như điếc, mồm như câm, mắt như mù… makeno, kẻo vạ đến thân như nhóm Nhân văn – Giai phẩm. Tội này, xét thì không xét, xử không xử, cứ ở trại giam mút mùa, đời như chết rồi mà chưa chôn. Thú thật lúc này, cái sợ đã làm tôi trở nên câm điếc trước những lời mời gọi của bài thơ mà mình không có can đảm tìm đến nó.
Mãi cho đến những năm 1990, nhân việc Nhà nước đổi mới và những nhân vật Nhân văn – Giai phẩm được nới lỏng, tôi mới được dịp đọc toàn bộ bài Màu tím hoa sim và hiểu thêm về tác giả. Hóa ra, ông Hữu Loan là cán bộ tiền khởi nghĩa, và đã có chức vụ rất lớn trong chính quyền cách mạng của Nhà nước Việt Nam – Phó chủ tịch UBHCKC huyện Nga Sơn, “siêu” giám đốc 4 ty của tỉnh Thanh Hóa, chủ bút tờ Chiến sĩ của Sư đoàn 304; sau năm 1954 làm báo Văn nghệ. Từ báo Văn nghệ, ông bỏ về quê làm người xẻ đá, thồ đá, bán đá mưu sinh đằng đẳng, cay cực mấy chục năm trời, hơn hẳn mừơi năm “nếm mật nằm gai” của cụ Lê Lợi thuở xưa. Cuộc sống của ông giống như cuộc sống của một kẻ tội đồ đang mưu sinh một mình ở một hành tinh chết xa xôi nào đó cho đến ngày ông về cõi tiên – ngày 18.3.2010, thọ 95 tuổi.
Một điều thật lạ lùng, ngay từ lần đọc đầu tiên toàn bộ tác phẩm “Màu tim hoa sim”, tôi đã bật khóc. Và từ năm 1990 đến nay, mỗi năm ít nhất tôi đọc lại một lần. Lần nào cũng vậy, lòng tôi đều rung lên, mắt tôi nhòe lệ, bất kể tôi đang ở trạng thái nào, khi rượu ủ mềm bụng, hay khi khí uất ngùn ngụt trên đầu, hay đang buồn phiền đến chân tay cũng trở nên thừa thãi. Có lẽ, với riêng tôi, cái hay của Màu tím hoa sim là ở chỗ “tôi được khóc”. Bài thơ ông khóc vợ ông mà như vắt ra từ chính cõi lòng của tôi vậy. Chi tiết nào trong bài thơ tôi thấy cũng thật, cũng gần gũi như cơm ăn nước uống hàng ngày của tôi. Đời người có cái gì đau đớn hơn khi cái hạnh phúc và cái mất mát bi thương kề cận nhau, quấn quýt nhau như thế. Nó cứ từ từ dâng lên, lớp nọ táp vào lớp kia cho đến khi trái tim không thể cưỡng lại:
“Tôi về thấy má tôi ngồi trong bóng tối / Bình hoa ngày cưới / Thành bình hương tàn lạnh vây quanh…/ Em ơi, anh không còn nghe em nói, không còn nghe em cười…/ Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc/ Nghe tin em gái mất / Trước tin em lấy chồng”…
Hôm nay, nghe tin ông mất, lang thang trên mạng, hết đọc tin chia buồn, rồi lại vào đọc hồi ký của ông, rồi đọc những bài tán tụng cái tiên ông đạo cốt của ông. Bất chợt lòng buồn lóe lên, tại sao đến tận bây giờ, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nghiêm túc nào về ông, để cho bàn dân thiên hạ hiểu rõ, rằng, tại sao ông lại bỏ về? Phải chăng ông thích bỏ về để đi làm thân cu li xẻ đá, thồ đá, bán đá như một anh hành khất bên lề đường? Phải chăng, ông có “Đèo Cả”, “Màu tím hoa sim”, “Hoa lúa”, “Những làng sư đoàn đi qua”…là ông đã xong cái việc đời của ông rồi? để ông đáng bị nhân Việt bỏ đói, truy ép, đầy đọa? Ông vô trách nhiệm với cái dạ dày của ông, của vợ con ông đến thế sao? Cái xã hội này không xứng để ông đi cùng sao? Tại sao trong cái Hội Nhà văn đông đảo thơ sĩ, văn sĩ, luận sĩ… của Việt Nam chỉ có ông và nhà văn Nguyên Hồng cùng dám bỏ về quê như vậy? Chà chà, nếu ông như mọi người, nhất định ông sẽ thành ông quan lớn, ty tỷ kẻ lạy nhờ, tỷ tỷ kẻ tung hô, tỷ tỷ kẻ bợ đít… Như thế, ông, con ông – mười đứa, chứ có 20, 30 đứa- hẳn cũng sẽ là những đại gia của thời đổi mới này rồi.
Phải chăng ông nhất quyết bỏ về là vì ông cảm thấy mình bị phản bội, bị lừa dối? Phải chăng tao không chơi với chúng mày vì chúng mày toàn những thằng đểu? Nó có giống như những Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Minh Chính; sau này là Trần Độ, là Đào Hiếu, Phạm Đình Trọng… mà mãi mấy chục năm sau mới nhận ra điều mà ông đã nhận ra từ lâu?
Ai biết, vì sao ông lại bỏ về quê như vậy, vì sao ông từ một nhà cách mạng, một nhà thơ lớn lại từ bỏ chính trường như vây? hãy nói cho tôi rõ với? Tôi e rằng, tôi không biết, không hiểu; anh không biết, không hiểu; bạn không biết, không hiểu… sẽ còn có nhiều người như Hữu Loan phải chịu cảnh sống với đồng chí, bè bạn mà như đang sống một mình ở một hành tinh chết xa xôi nào đó.
19 h ngày 19 tháng 3 năm 2010- 16h ngày 9 tháng 3 năm 2012.
Phạm Thành
Di bút của nhà thơ Hữu Loan



"
http://fddinh.blogspot.jp/2013/03/mau-tim-hoa-sim.html

7.

8.














Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét