Đó là tác giả Nhật Hoa Khanh - bút hiệu của Nguyễn Huy Đức.
Gần đây, mình có nhận các tài liệu in chính qui, của các nhà xuất bản chính qui, mà bên trong có nhiều bài của Nhật Hoa Khanh.
Sưu tầm dần dần.
---
1. Báo của Công An thì cho biết:
http://cand.com.vn/van-hoa/Phan-lon-noi-dung-la-gia-mao-xuyen-tac-bia-dat-562/
2. Số báo Đại Đoàn Kết đã đăng bài của Nhật Hoa Khanh:
*
*
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php/showFile.php?res=3214&rb=0102
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php/showFile.php?res=3220&rb=0102
4.
5.
---
1. Báo của Công An thì cho biết:
Về tài liệu "Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng" của Nhật Hoa Khanh:
Phần lớn nội dung là giả mạo, xuyên tạc, bịa đặt
2. Số báo Đại Đoàn Kết đã đăng bài của Nhật Hoa Khanh:
(theo Fb Son Kieu Mai)
3. Bản mà Phạm Thị Hoài đã đưa lên talawas năm 2004 (bản lấy về ngày 30/4/2015)
13.11.2004
Nhật Hoa Khanh
(Những tâm sự của nhà thơ Tố Hữu)
5 kỳ
Lời nói đầu của talawas
Nhiều tháng nay, dư luận Việt Nam nóng lên vì một tài liệu mang tên “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng (Những tâm sự của nhà thơ Tố Hữu)”, của tác giả Nhật Hoa Khanh. Tháng 4.2004, tài liệu này bắt đầu được phổ biến trong giới văn nghệ, báo chí tại Việt Nam. Tháng 5.2004, báoQuân Đội Nhân Dân trích đăng 3 kì từ tài liệu này dưới nhan đề “Tố Hữu và ‘Hoan hô chiến sĩ Điện Biên’”, kì số 3 vào ngày 07.5.2004. Nhà văn Hoàng Tiến, trong bài viết “Sự thật ở đâu? (Nhân đọc bản thảo Nhà thơ Tố Hữu tâm sự)” viết ngày 6.6.2004, gửi tới “Các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Ban Tư tưởng-Văn hoá, Bộ Văn hoá, Bộ Công an, Hội Nhà văn Việt Nam, Các cơ quan báo chí, thông tấn, Bè bạn văn nghệ sĩ và Các bạn đọc quan tâm”, đăng trên nhiều tạp chí, websites, và các diễn đàn trên mạng, cho biết rằng các báo như Tiền Phong Chủ Nhật, Người Hà Nội cũng đã trích đăng tài liệu này.
Ngày 17.7.2004, báo Văn Nghệ đăng bài phỏng vấn bà Vũ Thị Thanh, goá phụ của nhà thơ Tố Hữu, về tính xác thực của tài liệu này, nhân dịp Nxb Chính trị Quốc gia vừa phát hành cuốn sách „Tố Hữu-Người cộng sản kiên trung, nhà văn hoá tài năng“ mà bà tham gia trong Ban chỉ đạo biên soạn, với sự có mặt của các ông Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng Ban Tư tưởng Văn hoá, ông Trịnh Thúc Huỳnh, và ông Hà Minh Đức. Cuộc phỏng vấn do Ngọc Tỉnh thực hiện.
Nguyên văn ý kiến của bà Vũ Thị Thanh như sau:
“Gần đây có một tài liệu cuộc “gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng” năm 1997. Về tính xác thực của tài liệu đó, tôi xin khẳng định tài liệu đó là giả mạo, pha chế nhiều ý kiến riêng, mượn danh Tố Hữu, biến Tố Hữu thành người phát ngôn cho ý mình. Nội dung tài liệu đề cập rất nhiều vấn đề quan trọng trong đời sống tư tưởng văn hoá hiện thời, nói đó là ý kiến của Anh Tố Hữu. Tài liệu đó ghi là từ tháng 4-1997 (đã được sửa 20 lần) mà mãi đến tháng 6-2004, tức là sau 7 năm, chờ tới khi Anh Tố Hữu không còn nữa mới dám lưu hành một cách phi pháp. Tài liệu đó không có chứng tích kiểm định (không có bút tích hay ghi âm), lại chưa được Anh Tố Hữu duyệt và cho phép công bố. Hơn nữa nó đã qua “sửa lại khoảng 20 lần”, như vậy tác giả sửa ý của mình, không phải của Tố Hữu. Những vấn đề được đề cập trong đó tôi không hề biết, cho đến khi NHK phát tán, nhiều đồng chí bạn bè phẫn nộ gọi điện thoại và gửi tài liệu cho tôi đọc.
Tôi là người gần Anh Tố Hữu, làm thư ký cho Anh (do Tổ chức phân công) từ cuối những năm 90 thế kỷ trước, hiện đang lưu giữ tất cả bút tích, thư từ, bài nói, tranh ảnh. vật lưu niệm… của Anh. Là người có quyền công bố tất cả các tác phẩm, di cảo của Anh, tôi khẳng định những vấn đề ghi trong tài liệu của NHK không phải là ý kiến của Anh Tố Hữu. Tôi biết rất rõ Anh Tố Hữu không bao giờ “phẩm bình nhân vật”, khen chê người này kẻ khác, nói đi nói lại một cách tùy tiện. NHK là một người xa lạ, nhiệm vụ công tác không rõ ràng. Anh Tố Hữu từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, người hay thảo văn kiện cho Trung ương, người làm thơ, biết giá từng chữ, từng dấu phẩy, lẽ đâu nói tràn lan cho người không quen biết ghi 70 trang mà không cần xem lại. Anh Tố Hữu không vô ý đến thế! Và làm gì có chuyện một buổi chiều mà một phóng viên ghi tay tới 70 trang giấy. Rất nhiều truyện, nhiều việc thuộc diện Anh Tố Hữu không quan tâm (như tờ Kiến trúcmà anh NHK cộng tác, Anh Tố Hữu đâu có đọc mà Anh nói về nó những 2 trang).
Về bối cảnh cuộc phỏng vấn thì sức khoẻ anh Tố Hữu không cho phép Anh nói suốt 7 tiếng đồng hồ (từ 2 giờ chiều đến 9 giờ tối như NHK nói trong tư liệu). Gia đình chúng tôi không để Anh làm việc quá sức như vậy với một việc làm không gấp gáp, quan trọng. NHK lại nói trong lúc nói chuyện có một thanh niên đi qua đi lại nhắc nhở thì là bịa đặt vì thời gian đó trong nhà tôi không có một thanh niên nào vào những buổi chiều.
Tóm lại tài liệu mà NHK đã dùng kỹ xảo để dựng lên những sự kiện biạ đặt có nhiều ý đồ xấu.
Ngoài tài liệu giả mạo của NHK, trước đó ít lâu, trong số báo ANTG cuối tháng 5 có một bài của Tạ Chương tựa đề “Tố Hữu và ngọn đèn thơ” cũng là một dạng viết rất chủ quan, cảm tính, ghán ghép tùy tiện, không có kiểm định. Nhưng nó dựng lên một cách tinh vi một Tố Hữu cô đơn, hoang mang, tuyệt vọng, đáng thương.
Từ lúc 16 tuổi, Tố Hữu đã nguyện “hiến đến cuối cùng suối máu” cho Tổ quốc, đến tám mươi tuổi vẫn nói “còn chút phù sa cũng gắng bồi”, lúc ra đi vĩnh viễn còn thanh thản “Sống là cho, chết cũng là cho”. Tố Hữu là người đã giữ vững khí tiết qua bao nhiêu năm bị tù đày trong các nhà lao đế quốc và nhiều năm hoạt động bí mật trong quần chúng Cách mạng lao khổ nhất. Một Tố Hữu như vậy, đâu phải là người như Tạ Chương mô tả. Dĩ nhiên, là một nhà thơ, một con người, Tố Hữu có thể và cần có những giây phút suy tư, lo âu… trước cuộc đời. Nhưng những tình cảm thể hiện trong cuộc sống của Anh, phải đâu như Tạ Chương cảm nhận.
Với tư cách là vợ anh Tố Hữu, thư ký cho anh gần 20 năm, đang có trong tay tất cả những bút tích của Anh, tôi hiểu rõ tư tưởng, quan điểm của Anh Tố Hữu – là thủ trưởng trực tiếp của tôi trên 30 năm, tôi đề nghị các báo, báo chí, xuất bản không đăng hoặc, không lưu hành dưới bất kì dạng nào những loại tài liệu không chính xác, không lành mạnh như trên, và nếu đã đăng hoặc lưu hành thì cần phải được cải chính công khai trên báo chí. Từ đó tôi đề nghị Nhà nước cần biện pháp nghiêm minh để bảo vệ thanh danh cho mọi công dân, bảo vệ tính xác thực của những sự kiện lịch sử đúng đắn, xử lý thích đáng mọi hành vi vu khống, bịa đặt, nói xấu, làm tổn hại uy tín, nhân cách của mọi công dân, tổn hại đến sự nghiệp văn hoá-chính trị, đến sự bình an và phát triển của đất nước mà nhân dân ta đang ra sức bảo vệ.” (Báo Văn Nghệ, 17.7.2004)
Đến nay, không thấy ý kiến của tác giả Nhật Hoa Khanh về tuyên bố của bà Vũ Thị Thanh, các báo đã trích đăng tài liệu này không đưa ra đính chính, cho đến hôm nay (12.11.2004) kì số 3 ngày 07.5.2004 của báo Quân Đội Nhân Dân trích đăng tài liệu này vẫn chính thức nằm trên trang điện tử của tờ báo: http://www.quandoinhandan.org.vn/right.php?id_new=25920, và “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng” đã được xuất bản ở dạng sách, không ghi nhà xuất bản, bản photocopy của quyển sách này xuất hiện ở nhiều nơi.
Người quan tâm tới thời sự văn hoá-chính trị phải tự hỏi, vì sao có tình trạng kì lạ này?
Những người đã đọc cuốn sách hẳn phải ngạc nhiên hơn nữa. Hình ảnh Tố Hữu hiện ra qua lời ghi của tác giả Nhật Hoa Khanh là hình ảnh của một nhà hoạt động chính trị tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, một nhà thơ đem cả sự nghiệp của mình phụng sự cho cách mạng, một nghệ sĩ đầy lòng ưu ái và trân trọng đối với giới trí thức văn nghệ sĩ. Vì sao một hình ảnh Tố Hữu đẹp đẽ như vậy lại có thể bị người vợ ông, bà Vũ Thị Thanh, phủ nhận và đồng chí, bạn bè của bà phẫn nộ? Vì sao cuốn sách của Nhật Hoa Khanh, theo những nguồn thạo tin, lại có thể trở thành một trong những ấn phẩm bị coi là nguy hiểm? Dường như chính những diễn biến kì lạ xung quanh cuốn sách này lại cho thấy nhiều về bối cảnh văn hoá-chính trị Việt Nam hơn bản thân nội dung của nó.
Hai người duy nhất có thể làm chứng cho sự xác thực hay không của những lời tâm sự này là nhà thơ quá cố Tố Hữu và tác giả Nhật Hoa Khanh. Trong một nếp sinh hoạt tinh thần cởi mở, với một chính sách thông tin công khai minh bạch, lẽ ra một câu hỏi như vậy đã được giải đáp nhanh chóng. Nhưng cũng chính bởi sự thiếu sáng tỏ này và không khí nhạy cảm bao trùm lên cuốn sách mà sự kiện “Những tâm sự của nhà thơ Tố Hữu” đã trở thành một biến cố quan trọng trong đời sống văn hoá-chính trị Việt Nam hiện thời. Chúng tôi cho rằng độc giả rộng rãi có quyền được thông tin đầy đủ về biến cố này để có thể tự xác định quan điểm của mình.
Toàn văn sau đây của “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng” được chuyển trực tiếp từ bản in của cuốn sách đang lưu hành. Chúng tôi đã không thể liên lạc với tác giả Nhật Hoa Khanh để xin phép. Dĩ nhiên nếu ông phản đối, talawas phải lập tức rút bài đã đăng và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước tác giả.
Đốt nén hương thơm mát dạ người
Tố Hữu (Mẹ Tơm)
Cuối tháng 5 -1997, khoảng một tháng sau khi được nhà thơ Tố Hữu tiếp chuyện tại nhà riêng của ông ở Hà Nội, tôi viết xong bài này, gửi đến một tờ báo nhưng không được đăng.
Từ TP Hồ Chí Minh, tôi bấm số điện thoại 08043168 của Tố Hữu. Từ Hà Nội, sau khi nghe tôi thông tin về việc đó, nhà thơ thong thả trả lời: Không có gì quan trọng. Đừng bận tâm.
Đầu năm 2001, tại Nhà khách dinh Thống Nhất -TP Hồ Chí Minh trong một cuộc hội thảo, tôi thấy trên đoàn chủ tịch có Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Huy Cận. Cả ba nhà thơ tuy đẫy đà hơn trước nhưng cũng đều già hẳn từ dáng người đến gương mặt. Lúc giải lao, gặp Tố Hữu ở hành lang, tôi nói: „Thưa anh, vì đã có một tờ không đăng bài tôi ghi những lời tâm sự năm 1997 của anh cho nên tôi ngại gửi đến những tờ báo khác.“ Nhà thơ im lặng một lát, rồi bảo: „Tùy anh. Đừng nản chí.“ Tôi hỏi: „Thưa anh, cuốn đặc san Quy hoạch TP Hồ Chí Minh, trong đó có in lại bài Tiếng chổi tre và mấy câu trong bài Toàn thắng về ta của anh, tôi gửi ra Hà Nội từ cuối năm 1998, anh đã nhận được chưa?“ Ông bảo: „Chưa. Thế thì mất rồi. Chắc chắn bị lấy mất rồi. Các loại thông tin về quy hoạch bây giờ là tiền triệu, chục triệu, trăm triệu. Người ta lấy mất cuốn đó là phải. À, tôi đã đọc bài anh phỏng vấn Thượng tướng Trần Văn Trà đăng trên Tiền Phong Chủ Nhật số Tết Canh Thìn 2000. Đúng là phong cách Trần Văn Trà. Sau giải phóng miền Nam mấy năm, anh Trà cũng nói với tôi giống như nói với anh trên báo Tiền Phong và còn nói nhiều vấn đề lớn khác liên quan đến đồng chí Võ Nguyên Giáp. Anh nên tiếp tục vượt mọi khó khăn tìm hiểu về sự nghiệp và đạo đức của đồng chí Võ Nguyên Giáp. Khó lắm đấy, nhưng rất cần cho hôm nay và cho mai sau.“
Vừa lúc ấy, nhà thơ Nguyễn Đình Thi vóc người cao lớn đi tới với dáng hơi chậm chạp, không được khỏe. Tôi cúi chào. Nhận ra tôi, ông bắt tay. Tôi nói: „May quá, có cả anh Lành ở đây. Bốn năm trước, anh Lành có nói với tôi, Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ lớn toàn năng. Cần phải đánh giá Nguyễn Đình Thi cao hơn nhiều so với sự đánh giá lâu nay của một số nhà nghiên cứu - phê bình. Thưa anh, đăng lên báo ý kiến ấy có được không?“ Nguyễn Đình Thi vẫn giữ vẻ mặt trầm ngâm thường thấy, cặp lông mày rậm hơn nhíu lại, nhìn tôi: „Đó là chuyện của anh với anh Lành. Nếu ra Hà Nội muốn gặp tôi, anh cứ đến 51 Trần Hưng Đạo. Tôi hay trực ở đó.“ Rồi Nguyễn Đình Thi chuyển sang một đề tài khác.
Giờ nghỉ trưa, tôi đạp xe về nhà lấy bản thảo này, đem đến hội thảo buổi chiều. Sẩm tối, hội thảo bế mạc. Các đại biểu dự tiệc đứng. Tố Hữu ăn một chút rồi bảo tôi ngồi xuống một cái ghế cạnh ông gần bàn tiệc. Tôi đưa ông xem tập bản thảo. Ông đọc trong khoảng hai mươi phút và bảo: „Rất tốt! Nên gửi nhiều báo. Nhưng nhớ một điều: nếu đăng thì đừng nên cắt xén.“
Trong buổi trò chuyện chiều tối thứ bảy, 26-4-1997, Tố Hữu hay đệm thêm tiếng Pháp, nhất là khi nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, với phát âm tự nhiên và chuẩn mực.
Nhân chuyến bay ra Hà Nội năm nay (1997), tôi thu xếp thời gian đến gặp nhà thơ Tố Hữu. 14 giờ thứ bảy, 26-4-1997 (tức 20-3-Đinh Sửu), tôi dừng xe đạp trước biệt thự 76 Phan Đình Phùng (quận Ba Đình), nơi ở của tác giả Nước non ngàn dặm.
Từ thời thuộc Pháp, Phan Đình Phùng đã là một trong những đường phố cao cấp toàn biệt thự sang trọng bậc nhất thủ đô và rất thanh nhã.
Mấy năm nay, về cơ bản, không gian yên tĩnh truyền thống ở đây đã mất, nhường chỗ cho những tiếng ồn ào và xe gắn máy.
Trời đã vào hè. Ve sầu kêu rền rĩ khắp các hàng cây trên đường phố.
Tôi bấm chuông. Một người phụ nữ giúp việc từ trong nhà đi ra nhưng chưa mở cổng sắt lớn. Tôi ngỏ ý muốn gặp nhà thơ Tố Hữu. Người phụ nữ bảo tôi chờ để vào xin ý kiến nhà thơ. Lát sau, trở ra, chị hỏi tôi có mang giấy tờ gì không. Tôi gửi chị tấm thẻ nhà báo. Chị cầm thẻ đi vào. Khi ra, chị trả lại thẻ và mở cửa.
Dựng xe đạp ở một góc sân, tôi đi về phía phòng khách. Tố Hữu đã đứng ở cửa phòng. Dáng người ông vẫn nhỏ nhắn như 36 năm trước trong buổi chiều ông đến trường Đại học Sư phạm Hà Nội tháng 7-1961 nói chuyện tại lễ tốt nghiệp của chúng tôi. Chiều ấy, trên diễn đàn, nói chuyện xong, ông đọc bài thơ Mẹ Tơm vừa mới sáng tác đêm hôm trước và sau khi đọc xong, tặng bản thảo cho Ban giám hiệu.
Tuy nhiên, so với hồi đó, giờ đây, nhà thơ đẫy đà hơn, gương mặt nhiều nếp nhăn và hơi xệ. Bên ngoài áo sơ mi là một áo len cộc tay mỏng màu cà phê sữa nhạt. Chân đi bít tất và dép Thái Lan. Đôi mắt tuy vẫn lim dim như bao giờ nhưng lúc này hai đuôi mắt hằn sâu hai cái rẻ quạt. Rõ ràng, ông đã già yếu hẳn.
Hình ảnh ấy của nhà thơ 77 tuổi danh tiếng vang dội một thời làm cho tôi xúc động và cảm kích. Tôi không thể nào ngờ được mặc dầu yếu mệt nhưng ông lại đứng chờ tôi, một người không tên tuổi, một cách lịch thiệp, thân mật và trang trọng như vậy.
Tôi cúi chào và đọc:
Gặp anh, mừng thiệt là mừng [1]
Tố Hữu im lặng chìa bàn tay về phía bộ xa lông đã cũ trong phòng khách, rồi chậm chạp bước vào, vừa đi vừa ho mấy tiếng. Tôi bước theo và ngồi đối diện với nhà thơ. Sau lưng tôi là một cặp ngà voi trắng.
Tôi lên tiếng:
“Thưa anh, nhân dịp kỉ niệm 43 năm đại thắng Điện Biên Phủ, 22 năm giải phóng Miền Nam, 60 năm thơ Tố Hữu và 50 năm Tố Hữu nhận trọng trách chỉ đạo công tác tư tưởng - văn hóa - văn nghệ, tôi xin phỏng vấn anh về mấy vấn đề:
- Chuyện liên quan đến anh trong Hồi kí Phạm Duy
- Về hai bài thơ của anh: Mười năm và Tiểu đội anh hùng
- Việc sáng tác Nước non ngàn dặm và một vài bài thơ khác
- Cảm nghĩ của anh về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân vật mà anh đã hoan hô trong tráng khúc Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
- Quan hệ của anh với văn nghệ sĩ và trí thức.”
Tố Hữu vẫn im lặng, nhìn tôi một lúc khá lâu, đôi mắt vẫn lim dim. Sau mấy tiếng ho nhè nhẹ, nhà thơ 77 tuổi nói giọng Huế tuy yếu nhưng vẫn rõ ràng:
“Đừng gọi là phỏng vấn. Nên gọi là gặp gỡ thân mật. Như thế, tôi dễ nói được với anh những điều có thể gọi là tâm sự của mình. Bây giờ, anh cho tôi biết vấn đề thứ nhất: chuyện liên quan đến tôi trong Hồi kí Phạm Duy.”
“Thưa anh, trong hồi kí về thời kháng chiến chống Pháp của mình, nhạc sĩ Phạm Duy có kể: tại Hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc (1948), Tố Hữu bác bỏ vai trò của mấy thể loại kịch thơ, chèo, tuồng và cải lương trong nền văn học nghệ thuật thời kì kháng chiến chống Pháp.
Thực hư ra sao, xin được biết ý kiến của anh.”
Với gương mặt đượm vẻ không hài lòng, Tố Hữu trả lời:
“Tôi chưa biết việc nhạc sĩ Phạm Duy đã xuất bản hồi kí.
Điều nhạc sĩ Phạm Duy nói về tôi như anh vừa mới cho biết, tôi thấy không cần phải trả lời. Tôi không cãi nhau với Phạm Duy. Tôi đã mười năm ở trong Bộ Chính trị, tôi không cãi nhau với Phạm Duy.”
Ngừng một lát, nhà thơ dịu giọng dần dần. Ông nói tiếp:
“Hồi học lớp nhất (tức lớp 5 bây giờ) ở Đà Nẵng, tôi được xếp loại A về tiếng Pháp và đã thích đọc một số tác phẩm văn học Pháp bằng tiếng Pháp loại dễ. Chẳng hạn như một số trích đoạn trong Những vì sao (Les étoiles) của An-phông Đô-đê (Alphonse Daudet). Lên Huế, học ở trườngQuốc học (lúc đó gọi là trường Khải Định), tôi càng có điều kiện đọc La-mác-tin (Lamartine), Vi- nhi (Vigny), Huy-gô (Hugo), v.v. Từ thuở nhỏ, tôi đã được học tập thơ văn của các bậc danh nho thời trước và được nghe nhiều làn điệu dân ca trong đó có các điệu hò Huế. Vậy làm sao thời chống Pháp (1945-1954) tôi lại chủ trương treo cổ kịch thơ, xóa bỏ cải lương, tuồng, chèo!
Đối với anh Phạm Duy, từ hồi chống Pháp đến nay, tôi chưa bao giờ biểu lộ một thành kiến nào, bởi vì tôi biết rõ Phạm Duy là nhạc sĩ có tài năng lớn và đã một thời đi theo kháng chiến chống Pháp.
Nhiều ca khúc như Bà mẹ Gio Linh, Tiếng hát sông Lô, Xuất quân, Nhạc tuổi xanh, v.v. của anh Duy hồi đầu kháng chiến chống Pháp đã đi vào trái tim hàng vạn thanh niên, học sinh và bà con nông dân.
Vừa qua, nhà chức trách có hỏi ý kiến tôi về vấn đề Phạm Duy muốn xin về nước ở hẳn trong những năm cuối đời. Tôi trả lời rất rõ: Nếu nhạc sĩ Phạm Duy về nước để sáng tác ca ngợi tình yêu trai gái, ca ngợi tổ quốc thì cứ giải quyết theo đúng nguyện vọng của anh Duy.
Thôi, ta sang vấn đề khác, không nói gì liên quan đến nhạc sĩ Phạm Duy nữa. Tôi nghĩ không nên đưa chuyện này lên báo làm gì. Nhưng tùy anh thôi. Nếu có đưa thì nói đúng như trên.”
Đến lúc này, gương mặt Tố Hữu hoàn toàn trở lại vẻ dịu dàng lúc đầu. Nhà thơ ho nhẹ. Sau đó, ông có ý chờ tôi hỏi sang vấn đề thứ hai.
“Thưa anh, xin được hỏi về hai bài thơ của anh: Mười năm và Tiểu đội anh hùng.”
Tố Hữu trả lời trong sự ngạc nhiên:
“Tôi không nhớ gì về hai bài thơ đó.”
Tôi đọc một đoạn dài trong Mười năm. Nhà thơ bảo: “Thơ của tôi à? Đăng ở đâu? Tôi hoàn toàn không nhớ ra hai bài này.” (Tố Hữu lại ho).
Tôi đọc lại mấy đọan trong Tiểu đội Anh hùng. Tố Hữu cũng nói như trên. Ông nói thêm: “Hồi chuẩn bị bản thảo tập Gió lộng, có một anh bạn cung cấp cho tôi bài Quang vinh Tổ quốc chúng ta và cho biết đó là thơ của tôi. Lúc ấy, tôi mới nhớ là mình đã sáng tác bài này. Nhờ vậy, Quang vinh Tổ quốc chúng ta mới được đưa vào Gió lộng. Anh có thể cho tôi biết cụ thể về hai bài thơ anh vừa nói được không?”
Không để Tố Hữu chờ lâu, tôi trình bày luôn:
“Thưa anh, chắc anh còn nhờ ngày mồng một tháng Giêng năm 1955, ngày “Mừng Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch trở về Thủ đô”. Đây là một trong những ngày vĩ đại của dân tộc sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Trên Lễ đài, có Bác Hồ, cụ Tôn Đức Thắng, các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, v.v. Sau khi Bác đọc xong diễn văn ngắn gọn và xúc động, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp duyệt binh.
Tiếp đó, là cuộc diễu hành qua Lễ đài của hàng chục vạn người dân Hà Nội thuộc đủ các giai cấp, thành phần. Bác Hồ giản dị trong bộ đại cán ka ki cầm chiếc khăn mặt trắng liên tục vẫy khăn đáp lại muôn vạn tiếng hô “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm”, “Nước Việt Nam Hòa bình, Thống nhất, Độc lập, Dân chủ và Giàu mạnh muôn năm” vang rền khắp quảng trường Ba Đình. Anh cũng có mặt trên lễ đài.
Một sự việc bất ngờ xảy ra: khi đi qua Lễ đài, đoàn thiếu niên và thiếu nhi Hà Nội bỗng dừng lại và nhìn mãi lên phía Bác Hồ trong tiếng quân nhạc hùng tráng và lôi cuốn. Hàng vạn người ở phía sau không tiến lên được. Bác Hồ quá xúc động nhưng Người buộc lòng phải nhắc các cháu và nhắc bằng một giọng dịu dàng: Các cháu ngoan, nghe lời Bác, tiến lên để đồng bào tiến theo!
Một lát sau, đoàn thiếu niên và thiếu nhi mới bước tiếp, vừa đi vừa ngoảnh nhìn lên phía Lễ đài.
Thưa anh, tôi cũng được vinh dự đi trong đoàn học sinh trung học diễu hành qua Lễ đài tiếp theo đoàn thiếu niên và thiếu nhi sáng hôm ấy.
Khoảng 14 giờ cùng ngày, báo Nhân Dân đã kịp thời ra số đặc biệt về Ngày vĩ đại đó.
Rất may mắn, bố tôi mua báo Nhân Dân quanh năm, cho nên, chiều ấy nhà tôi có số báo này. Tôi thấy trên trang nhất là những hình ảnh Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các đơn vị quân đội, dân quân và các khối quần chúng. Số báo in một bức phác họa nhỏ chân dung anh và đăng trọn vẹn bài thơ Mười năm của anh. Cuối bài thơ, tác giả nhắc lại sự việc đoàn thiếu nhi dừng lại:
…Vẫn đôi mắt dịu hiền Vẫn bàn tay ấy vẫy nghìn cánh tay Lắng nghe lời Bác mà say Ấm lòng giọng nói khoan thai, ngọt ngào: Hát đi, các cháu, ngoan nào
Tiến lên cho rộng, đồng bào bước theo! Một lời rót xuống thương yêu Bốn phương đất dậy trời reo vui mừng…
Thưa anh, toàn bộ bài thơ khá dài và hết sức nồng nàn, tha thiết, đọc vài lần là nhớ mãi.
Là một học sinh Hà Nội tạm chiếm lần đầu tiên được sống trong những ngày đầu giải phóng Thủ đô (từ 10-10-1954) và lần đầu tiên được biết cái tên Tố Hữu, lần đầu tiên được biết thơ Tố Hữu qua bài Mười năm đầy sức truyền cảm, tôi vô cùng xúc động. Thế là, tôi lấy giấy ra, vẽ lại bức phác họa chân dung Tố Hữu. Tôi rất nhớ đôi mắt lim dim đượm vẻ thơ trên bức phác thảo. Sau đó, tôi học thuộc lòng cả bài.
Thưa anh, suốt 42 năm nay (1955-1997), Mười năm là một trong những bài thơ góp phần thổi to thêm ngọn lửa cách mạng trong trái tim tôi trên những nẻo đường chống Mỹ nơi núi rừng và xây dựng hòa bình nơi đô thị.
Xin phép anh cho tôi được đọc diễn cảm cả bài.”
Tố Hữu im lặng nhìn tôi, rồi gật đầu và ho mấy tiếng.
Tôi đã đọc diễn cảm gần hết bài thơ, chỉ quên một số câu. Tôi đọc nhỏ thôi, đủ để tác giả nghe rõ.
Sau khi tôi đọc xong, anh Lành im lặng một lát, nhìn tôi. Rồi người anh lớn ấy từ từ đưa bàn tay phải về phía tôi. Hình như ông định đứng lên nhưng vì không được khỏe cho nên vẫn phải ngồi trên ghế. Tôi cảm thấy như vậy. Tôi đưa hai tay ra, nắm lấy bàn tay mềm của nhà thơ 77 tuổi. Từ bàn tay ấy toát ra hơi ấm của một trái tim vẫn bừng bừng sức sống, truyền vào hai bàn tay tôi. Tôi nhìn thoáng vào đôi mắt người anh lớn. Đôi mắt ấy không chớp và, và có một cái gì như là vừa yêu thương vừa cảm kích.
Anh Lành rút tay về và bảo: “Hôm nào anh chép lại bài thơ ấy, gửi cho tôi. Còn bài thứ hai?” (Nhà thơ lại ho nhẹ mấy tiếng).
“Thưa anh, năm 1962, tôi công tác Điện Biên. Hồi ấy, báo chí nói nhiều về vụ án Lê Quang Vịnh và Lê Hồng Tư. Tại tòa án Mỹ ngụy, Lê Quang Vịnh và nhóm cảm tử đã hiên ngang lên án kẻ thù. Báo Nhân Dân đăng bài thơ nổi tiếng của anh về nhóm Lê Quang Vịnh trước tòa án nhan đềTiểu đội Anh hùng. Tôi nhớ dịp đó, chị Anh Thơ và một số nhà thơ khác cũng sáng tác về Lê Quang Vịnh.
Vì thơ anh bao giờ cũng dễ nhớ, dễ thuộc và dễ đi vào lòng người, cho nên chỉ vài lần đọc, tôi đã thuộc. Tiểu đội Anh hùng, suốt 35 năm nay (1962-1997), cũng như Mười năm, thôi thúc tôi trên những bước đường đời.
Xin phép anh cho tôi ngâm đầy đủ để anh nghe.”
Tôi ngâm từ đầu đến cuối bài thơ sáu khổ, hai mươi tư dòng đó.
Tôi vừa ngâm xong, Tố Hữu nói ngay: “Tri âm tri kỷ!”
Lần này thì ngược lại, tôi kính cẩn đưa hai tay về phía người anh lớn và xin được nắm tay anh. Nhà thơ vui vẻ chìa bàn tay phải cho tôi nắm chặt, rồi dặn: “Nhớ chép cả hai bài, rồi gửi cho mình”.
Uống một ngụm trà theo lời mời của nhà thơ, tôi trân trọng hỏi Tố Hữu về vấn đề thứ ba:
“Thưa anh, hôm nay tôi muốn được biết rõ về Nước non ngàn dặm. Trường ca này, theo ý tôi, là tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp thơ anh về nhiều mặt, đặc biệt là về tính dân tộc trong nội dung, trong âm điệu, trong ngôn ngữ và trong cả thể loại. Mong anh cho biết tương đối kĩ về bản trường ca.”
“Tôi xin cám ơn sự đánh giá của anh. Thực tình mà nói, đây cũng là một trong những bài tôi có thể thích, tôi có thể nói rõ là tôi thích vì tôi đã dành nhiều tâm huyết của mình vào bài thơ này. Không phải ngẫu nhiên, cũng phải vào một thời điểm nào đó, tôi mới viết được Nước non ngàn dặm.
Đó là lúc chúng ta kí hiệp định Pa-ri. Mỹ đi rồi nhưng vẫn trở lại dưới dạng khác. Phương Tây gọi là đổi màu da xác chết. Tiếp tục vũ trang cho ngụy, cuộc chiến tranh của Mỹ thực chất vẫn tiếp diễn qua bàn tay của ngụy. Vì thế, rõ ràng hiệp định không thể thực hiện được. Một số đồng chí nghĩ rất chân thành rằng: cố gắng đấu tranh hòa bình, dựa vào hòa bình để gây sức ép với Mỹ- ngụy theo luật pháp quốc tế. Cố gắng nhiều nhất để tiến tới thống nhất đất nước một cách hòa bình, đỡ đổ máu vì suốt gần hai mươi năm toàn dân ta đau khổ và hi sinh xương máu quá nhiều. Nghĩ như vậy là ngây thơ, là mơ hồ, không thể mơ hồ được!
Sau vài tháng chờ đợi diễn biến tình hình, trong một kì họp, đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và đồng chí Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp rút ra kết luận: không thể mơ hồ về âm mưu của địch, không thể ngây thơ mong đợi hòa bình và thống nhất đất nước theo quan điểm nói trên. Trong thực tế, địch đã lập tức chuyển sang đánh nhau với ta. Chúng lùng sục. Chúng bắn giết ghê gớm. Cho nên, anh chị em chúng ta trong Nam, ngay từ Quảng Trị, ngay từ bên kia sông Bến Hải, tất cả đều đòi hỏi Trung ương phải kịp thời đề ra chủ trương thích hợp với tình hình mới của cách mạng để anh chị em khỏi vướng với cái gọi là “hiệp định Pa-ri”, nghĩa là để bản hiệp định này khỏi trói tay mình.
Tôi nói một chút. Tôi xin lỗi nói lại với anh: tôi luôn luôn làm thơ do sự thôi thúc của khối óc và trái tim, do yêu cầu của thời cuộc. Nói như Gớt:Thơ nào cũng là thơ thời cuộc cả. (Sau đó, Tố Hữu nói câu của Gớt bằng tiếng Pháp nhưng tôi nghe không rõ và không ghi lại được. Ông lại ho, rồi tâm sự tiếp). Thơ tôi luôn luôn thế, vẫn là thơ thời cuộc.
Bộ Chính trị trước đây, đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và đồng chí Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp quyết định phải tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng Miền Nam bằng toàn lực của cả nước.
Trong hoàn cảnh đó, tôi lần lượt nói với anh Ba và anh Văn: tôi giữ ba chức đấy nhé: Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương và Bí thư Trung ương Đảng. Thế mà tôi chưa từng vượt đường lớn Hồ Chí Minh lần nào. Đề nghị các anh cho tôi vào Nam để nắm tình hình tư tưởng của quân dân miền Nam, từ đó, làm tốt hơn nữa việc giáo dục và động viên quân dân cả nước tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Đó là mục đích của chuyến đi. Ngoài ra, nếu có thơ thì càng tốt.
Anh Ba và sau đó, anh Văn nhất trí ngay.
Nhân có chuyến xe vượt Trường Sơn của anh Đinh Đức Thiện, tôi đi theo luôn. Đi bằng xe quân sự. Đoàn xe có khoảng trên dưới mười chiếc. Hai chúng tôi cặp kè với nhau.
Đường Trường Sơn vô cùng nguy hiểm. Không quân và pháo binh ngụy vẫn tiếp tục bắn phá. Máy bay thám thính OV10 của địch rất lợi hại.
Tôi rất thuộc miền Trung và Huế vì đã hoạt động ở những nơi đó nhiều năm. Huế và miền Trung trong cuộc chống Mỹ thuộc về miền Nam. Chính vì thế, tôi dễ xúc động khi nghe đến hai chữ Miền Nam, tôi viết về Miền Nam dễ dàng.
Càng đi xuống phía Nam, tôi càng xúc động. Tôi quê Huế nhưng ra đời ở Hội An (thuộc tỉnh Quảng Nam), không phải ra đời ở Huế như nhiều sách báo viết lầm. Tôi bước vào đường cách mạng từ năm 16 (1936). Sinh năm 1920, đến năm 1973, tròn 53, mới có dịp trở lại Hội An. Do đó, trongNước non ngàn dặm, tôi viết:
Đường đi từ tuổi thơ ngây Nửa vòng thế kỉ, hôm nay: đường về.
Đây là lần đầu tiên tôi vượt Trường Sơn vào Nam. Lí thú cực kì. Lãng mạn cực kì. Thơ mộng cực kì. Chiến tranh với hố bom, với xương máu khắp núi rừng.
Đau thương vô hạn. Nhưng cảnh vật trên đường lớn Hồ Chí Minh vẫn thật là nên thơ và hùng vĩ. Nổi bật hơn cả chính là hình ảnh nhân dân, chiến sĩ, thanh niên xung phong, thày giáo và cán bộ các ngành rất anh hùng, rất lạc quan, rất sáng tạo. Chính cái hiện thực lí thú cực kì, lãng mạn cực kì, thơ mộng cực kì đó đã giúp tôi sau khi trở về Miền Bắc viết được bốn câu:
Ôi đất anh hùng biết mấy mươi Chìm trong máu chảy vẫn xanh tươi Mưa bom bão đạn lòng thanh thản
và hai câu:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai
Tôi nhắc lại: mục đích chính của chuyến đầu tiên vượt Trường Sơn này là để tôi nắm thực tế, giúp cho việc chỉ đạo công tác tư tưởng của Trung ương; còn chuyện sáng tác, để sau khi ra Bắc. Vì thế, suốt ba tháng trong chuyến đi ngàn dặm, tôi chỉ bàn công tác với anh Đinh Đức Thiện và các anh khác, chỉ cảm và nghĩ về hiện thực của cuộc chống Mĩ ở miền Nam, không viết một dòng thơ nào. Đi xong, trở về Hà Nội, mới nghĩ đến chuyện làm thơ.
Về tới Hà Nội, việc đầu tiên của tôi là báo cáo về chuyến đi với hai đồng chí Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp, đồng thời đề xuất một số ý kiến về cuộc chống Mỹ trong giai đoạn cuối cùng. Tất nhiên, chỉ đạo giải quyết giai đoạn cuối cùng của cuộc chống Mỹ là công việc của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương.”
[1]Nước non ngàn dặm (trường ca-trong tập Máu và hoa -Tố Hữu)
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php/showFile.php?res=3214&rb=0102
13.11.2004
Nhật Hoa Khanh
(Những tâm sự của nhà thơ Tố Hữu)
5 kỳ
“Hôm nay, tôi chỉ nói về trường ca Nước non ngàn dặm. (Tố Hữu lại ho liên tục).
Sau buổi báo cáo nói trên, tôi phải trốn lên Tam Đảo một tuần lễ. Cái không khí tĩnh lặng, thơ mộng và lạnh giá của Tam Đảo giúp tôi dễ hồi tưởng về chuyến đi ngàn dặm đó. Tôi tưởng tượng chuyến đi ấy như một giấc mơ, một giấc mơ dài:
Đường đi như giấc mơ dài.
Nhưng chỉ là một giấc mơ tưởng tượng, một giấc mơ hoàn toàn không có thật bởi vì trên thực tế, tôi đã thực hiện chuyến đi này.
Các tên đất trong bản trường ca đều có thật. Tuy nhiên, phải viết sao cho không lộ bí mật quân sự. Anh Đinh Đức Thiện nhắc nhở tôi như thế.
Vì toàn bài là một giọng trữ tình, cho nên loại hình tráng ca không thích hợp. Bài thơ diễn tả cả một chuyến đi ngàn dặm nước non, cho nên phải dùng loại hình trường ca. Vì toàn bài kể lại các câu chuyện trong chuyến đi ngàn dặm Miền Nam, cho nên nếu dùng thể bảy chữ (thất ngôn) cũng sẽ gặp khó khăn. Thích hợp với giọng điệu trữ tình và với việc kể chuyện chính là thể lục bát. Tôi chọn lục bát. Tất nhiên, thể loại không quyết định nhưng nó đóng vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện nội dung.
Tôi tự nhủ: tuy bài thơ là một trường ca nhưng không nên quá dài. Phải tính toán làm sao cho trong một độ dài vừa phải, bản trường ca vẫn phản ánh được đầy đủ tấm lòng thiết tha của mình đối với nhân dân và quân đội.
Đúng như vậy, bản trường ca phải phản ánh đầy đủ tấm lòng thiết tha của tôi đối với nhân dân và quân đội.
Tôi yêu dân ca và biết dân ca từ nhỏ. Tôi yêu điệu Nam Bình của núi Ngự, sông Hương. Đã bao lần tôi lặng người trong câu ca Nam Bình: Nướcnon ngàn dặm/ Ra đi/ Cái tình chi… diễn tả nỗi đau của công chúa Huyền Trân trên đường vào Nam làm vợ vua Chiêm.
Tôi hay dùng cái cũ để nói ý mới. Dùng cái tình chi để nói tình của tôi đối với Miền Nam, đối với tổ quốc. Thế là tôi lấy câu NƯỚC NON NGÀN DẶM để đặt tên cho bản trường ca diễn tả tấm lòng thiết tha của mình đối với nhân dân và quân đội trong chuyến đi ngàn dặm nước non ấy.
Tới Trà Mi (Quảng Nam), nơi tôi chào đời, tôi lặng người hồi lâu. Ở Tam Đảo, nhớ lại những phút giây lặng người đó, tôi viết:
Trà Mi đây, hỡi Trà Bồng Có hay cây quế đợi trông tháng ngày Nâng cành quế héo trên tay Càng thương quế ngọt quế cay cùng người
và:
Hội An, Đà Nẵng xa khơi Ấy nơi mẹ ắm, ấy nơi mẹ nằm.
Xót xa, thương nhớ mẹ tôi và những con người cùng thời với mẹ. Nỗi niềm của tôi. Tấm lòng của tôi. Nỗi niềm và tấm lòng của tôi khi đặt chân lên nơi chào đời sau khoảng nửa thế kỉ xa cách.
Trong đời mình, tôi chưa làm bài thơ nào nói về cuộc đời chung của nhân dân và cuộc đời riêng của mình như bài này. Tôi trút hết nỗi lòng mình vào Nước non ngàn dặm.
Nỗi niềm chi rứa, Huế ơi Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên (…) (…) Nặng lòng xưa giọt mưa đan Mát lòng nay trận mưa mau quê nhà.
Tâm trạng. Toàn là tâm trạng cả. Ở Huế và trên khắp các nẻo đường nước non ngàn dặm, tôi đều thấy ngày toàn thắng đã tới gần:
Mát lòng nay trận mưa mau quê nhà
Toàn bài là tâm trạng của tôi
Toàn bài còn là những liên tưởng của tôi.
Như trên đã nói: tôi liên tưởng đến câu ca Nam Bình, tôi liên tưởng tới chuyến đi ngàn dặm của công chúa Huyền Trân. Bây giờ, xin nói thêm: rời Hà Nội cùng anh Đinh Đức Thiện, tôi ra tiền tuyến. Ra tiền tuyến tức là về tuổi xuân, về Huế, về Hội An, về miền Trung thương yêu của tôi thời tuổi trẻ:
Đường ra tiền tuyến, đường về tuổi xuân.
Đó cũng là liên tưởng. Trong Nước non ngàn dặm tôi liên tưởng nhiều lắm. Đó là chuyến đi của nội tâm, không phải chuyến đi bằng chân, không phải chuyến đi bằng xe quân sự.
Trong bản trường ca, tôi chú trọng tả cảnh, chú trọng nói đến việc đời của mình, tâm tình của chính mình, chuyện thật của đời tôi và chuyện thật của đất nước. Vì vậy, Nước non ngàn dặm có một giọng điệu riêng. Về cơ bản, giọng điệu trong Nước non ngàn dặm khác hẳn giọng điệu trong hầu hết các bài thơ khác của tôi trước đó (và cả sau này).
Trong suốt chuyến đi ngàn dặm ấy, đoạn đường nào đối với tôi cũng đầy kỉ niệm.
Một trong những kỉ niệm sâu sắc nhất là cuộc đi trốn ở Đắc Lay, cuộc vượt ngục ở Đắc Lay năm 1942. Trong chuyến đi, tôi tình cờ được trở lại làng Rô, nơi tôi được đồng bào Kà Dong nuôi giấu sau khi tôi vượt ngục.
Đường đi như sự tình cờ Con sông Mi lại bây giờ lần theo Vượt tù xưa, bước gieo neo
Sau khi phát hiện ra tôi và anh Huỳnh Ngọc Huệ trốn tù, Đồn trưởng cho treo ảnh chúng tôi nhiều nơi. Dân làng Rô biết tôi nhưng vẫn bí mật nuôi dù họ quanh năm đói. Tôi trốn trong nhà một ông già người Thượng. Ông già nằm bên bếp. Một cô gái khoảng 15-16 tuổi trông rất dễ thương hàng ngày nấu xôi cá nuôi chúng tôi. Khi chúng tôi ra đi, cô gái tiễn một đoạn đường rừng và đưa tặng mỗi chúng tôi một gói xôi.
Thương em, cô gái sông Mi Nắm xôi đưa tiễn anh đi qua rừng.
Tốt đến như thế! Đẹp đến như thế! Đó là năm 1942. Ngay sau cách mạng Tháng Tám, phải lo việc kháng chiến chống Pháp, rồi phải ra Việt Bắc, tôi không thể về thăm làng Rô được.
31 năm sau (1942-1973), nhân chuyến đi này, tôi mới có dịp trở lại làng Rô ơn nghĩa của mình.
Tôi bảo anh Thiện: Mình nhớ ơn cái làng Rô quá! Anh cho quân tìm giúp xem làng còn ai hồi mình vượt ngục hay không. Quân anh Thiện tìm mãi mới thấy dân làng ở sâu trong rừng. Họ tặng tôi ngô, thuốc lá khô, lạc. Tôi sửng sốt khi thấy họ tặng tôi một cặp ngà voi. Họ bảo: lúc ông đi rồi (họ gọi tôi bằng ông), làng bẫy được một con voi. Già làng dặn chúng tôi: quên gì thì quên, bỏ gì thì bỏ nhưng phải giữ lại, không được bán cặp ngà cho lái buôn, để sau này tặng hai ông khi hai ông có dịp trở lại. Sau đó, chúng tôi biết một ông chết (anh Huỳnh Ngọc Huệ chết sau khi tôi và anh Huệ rời nhà ông già). (Nói đến đây, Tố Hữu lại ho rất nhiều. Giọng ông yếu hẳn một lúc lâu). Họ vẫn giữ cặp ngà voi và vẫn đợi tôi suốt 31 năm. Giống như Đợi anh về! Cao hơn Đợi anh về! Tình cảm cách mạng của đồng bào Thượng sâu như thế! Họ biết mình đánh Tây cho nên họ nuôi mình bất chấp nguy hiểm. Sau này, vào cuộc chống Mỹ, làng Rô vẫn gan góc như thế. Họ thù Tây-Mỹ lắm. Lúc ấy (1973), tôi mới biết ông già tên Đễ, cô gái tên Đỡ. (Giọng Huế êm dịu nhưng nghẹn ngào, Tố Hữu đọc).
Ôi làng Rô nhỏ của tôi Cao cao ngọn núi chiếc nôi đại bàng Trăm năm ta nhớ ơn làng Cánh tay che chở bước đường gian nguy Thương em, cô gái sông Mi Nắm xôi đưa tiễn anh đi qua rừng
Cái làng ấy đúng là chiếc nôi đại bàng. Tôi đánh giá rất cao tấm lòng của toàn thể dân làng Rô. Một số người đọc bài thơ này nhưng vô tình, không để ý đến hình tượng chiếc nôi đại bàng.
(Sau một cơn ho kéo dài, Tố Hữu nói tiếp). Trong thơ của tôi, về thể lục bát, Việt Bắc và Nước non ngàn dặm là hai bài tiêu biểu. Ở cả hai bài đó, tôi đều gửi gắm tâm tình của mình: gắn bó với nhân dân, với đất nước.
Nhưng số phận Nước non ngàn dặm cũng long đong. Chuyện như thế này:
Khi tôi viết xong, có người bảo: bản trường ca buồn buồn, không có khí thế; cả bài thơ tràn ngập một tâm trạng xót xa. Lại có người bảo: xếp lại.
Quân Đội Nhân Dân không đăng.
Người ta bảo: Mấy chàng lính trẻ măng tơ/ Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi là bêu xấu người lính trẻ. Lính trẻ gì mà nhếch nhác, lộn xộn như thế!
Ngây thơ! Ngốc! Đây là hai câu thơ vui về các chàng lính trẻ. Trên đường đánh giặc, các chàng chờ cơm, gõ bát hát nghêu ngao. Lạc quan! Chân thực! Chẳng có gì là bêu xấu ai!
Nhân Dân cũng không đăng.
Chắc ở báo Nhân Dân có ai nói thế nào đó về thơ. Buồn cười! Buồn cười đến như thế! Ấu trĩ! Ấu trĩ đến như vậy trong đời sống xã hội-chính trị của chúng ta! Ấu trĩ! Ấu trĩ đến như vậy ở một cán bộ cấp cao đấy nhé! Quên đi! Đừng nói ra làm gì!
Nhưng tôi có cách của tôi. Tôi không cần báo đăng. Tôi giao cho bên Tổng cục Hậu cần của anh Thiện. Quân anh Thiện đâu cũng có. Anh Thiện cử người lo chuyện in giúp tôi mấy vạn cuốn khổ nhỏ bằng bàn tay. Phát hành đến đâu, hết đến đó. Lính hậu cần thích, rất thích. Cả lính trẻ lẫn lính già nói chung đều thích, thích lắm. Họ nằm võng ngâm nga hai câu cuối Mấy chàng lính trẻ măng tơ/ Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi và nhiều câu khác trong bản trường ca. Anh ạ, Nước non ngàn dặm góp phần nuôi dưỡng sức chiến đấu của người lính. Các địa phương được bài thơ nhắc đến càng thích. Giới văn nghệ cũng thích.
Đến nay, bài thơ vẫn sống. Nhiều người, khi nghiên cứu thơ tôi, vẫn nhắc đến Nước non ngàn dặm. Có bạn đọc đã thuộc cả bài.
Tính tôi vẫn thế: nói đúng, tôi chịu; nói sai, tôi không chịu. Tôi có cách của tôi. Tôi có cách vượt qua, không cần báo đăng.
Nhưng Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam lại ngâm, lại mời một nghệ sĩ ngâm Nước non ngàn dặm. Anh Hoàng Như Mai, giáo sư văn chương, được Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam mời giới thiệu Nước non ngàn dặm. Bài phân tích của anh Mai gọn và sâu. Hoàng Như Mai hiểu rõ tâm sự của tôi trong bản trường ca.
Báo không đăng. Đài cứ ngâm. Buồn cười! Chuyện đời thật là rắc rối!
Đời tôi đôi lúc có trục trặc. Tôi nói vui: trục trặc kĩ thuật.
Nhưng như trên đã nói: tôi có cách của tôi.
Có lẽ tôi nói với anh về Nước non ngàn dặm đã hơi nhiều. Đủ chưa? Tôi nghĩ: quá đủ. Tôi không muốn dừng lại ở chi tiết. Dừng lại ở chi tiết là vô ích.
Đến đây, nhân nói về trục trặc kĩ thuật trong đời mình, tôi xin tâm sự một chút về Đường về, vài thơ tôi làm năm 1964 và đăng ngay trên báoNhân Dân.
Đường về là tâm sự của tôi. Nhưng cũng có người nói này nói nọ. Tôi bảo: xin lỗi, anh làm ngoại giao là việc của anh, tôi làm thơ là việc của tôi. Tất nhiên, tôi phải phục tùng chính trị. Nhưng tôi không động chạm đến ai hết, tôi có quyền nói lên suy nghĩ của mình, có quyền nói lên tâm sự của mình bằng cách này hay cách khác. Tôi cũng đủ cương vị để người ta phải nể, để người ta không thể tùy tiện phê phán tôi. Với người khác, có thể sinh chuyện. Nhưng với tôi, tôi có đủ cương vị để tự bảo vệ.
Ai không thích, tùy người đó. Nhưng khi tôi cảm thấy mình làm đúng, tôi cứ làm. Thế thôi. Tôi hơi ngang một tí. Tất nhiên, làm thơ đừng có ngang như cua, đừng chày cối. Nhưng nếu nhà thơ (hoặc nhà văn và nói rộng hơn, nhà nghệ thuật, nhà trí thức) thấy mình đúng thì cứ tìm cách mà làm, không phải vì danh tiếng, không phải vì lợi ích của riêng mình mà vì lợi ích của nhân dân, của tổ quốc.
Tôi và anh mới gặp nhau lần đầu nhưng anh đừng ngại.
Nhân đây, tôi muốn nói thêm về chuyện văn chương.
Tôi không thích cái trò văn chương này đâu! Người ta bàn nhiều về văn chương, về nghệ thuật. Xin lỗi, tôi chẳng muốn tham gia. Bàn làm gì! Bàn làm gì! Ngồi để bày đặt cho nhau làm gì! Giọng cao giọng thấp thế nào thì tùy. Tôi nói như vậy hơi ngổ ngáo một tí đấy nhưng tính tôi như vậy.
Vấn đề tài năng, vấn đề phong cách, vấn đề bút pháp: không nên bàn tới. Còn chuyện đời đúng sai thì nên bàn.
Trong văn chương nghệ thuật, nói với nhau một tí cho vui nhưng nên tôn trọng người sáng tác. Đừng khuyên nhà thơ nên làm lục bát hay tứ tuyệt. Đó là việc của nhà thơ. Đừng khuyên nhà văn nên viết tiểu thuyết hay truyện ngắn. Đừng khuyên nhà soạn kịch nên viết kịch nói hay kịch thơ. Đừng khuyên người viết kịch bản sân khấu truyền thống nên sáng tác cải lương, chèo hay tuồng. Đừng khuyên nhạc sĩ làm ca khúc hay giao hưởng. Đừng khuyên họa sĩ vẽ người chiến sĩ hay cô gái. Nói thế vô duyên. Đó là việc của người sáng tác.
Điều này cũng giống như bàn về phụ nữ Việt Nam nên mặc áo dài hay áo ngắn. Anh thích áo ngắn. Tôi thích áo dài. Anh thích màu xanh. Tôi thích màu đỏ. Thì cũng dzậy. (Nói đến đây Tố Hữu cười).
Hình thức cũng quan trọng, nhưng bên trong hình thức là cái gì, đó mới là điều cần thiết nhất. (Tố Hữu ho nhiều và lại cười).
Bây giờ, người ta nói quá nhiều về thời trang nhưng quên mất cái cơ thể, cơ thể vật chất và cơ thể này này. (Nhà thơ chỉ tay vào tim và óc của mình). Người ta quên mất trái tim và khối óc. Có lẽ thời trang nó lồ lộ ra ngoài, người ta dễ cảm nhận hơn cái bên trong, cái cơ thể vật chất tứctrái tim và khối óc.
(Nhà thơ lại ho liên tục. Im lặng một lát, ông nói tiếp trong nghẹn ngào).
Tôi ân hận vì chưa làm được gì cho “làng Rô nhỏ của tôi”, cho “chiếc nôi đại bàng” ấy. Mấy lần về Quảng Nam sau ngày thống nhất đất nước, tôi đều nhắc địa phương nên làm một cái gì cho đồng bào của làng bất khuất ấy, cái làng không chịu cho Tây, không chịu bắt người cách mạng nộp cho Tây lấy thưởng…
Hãy đừng quên vô số cái nôi đại bàng như thế trên khắp đất nước chúng ta!
Vô số cái nôi đại bàng như thế trên đất nước ta, hãy nhớ, hãy đừng quên, hãy đền ơn đáp nghĩa!
Tôi mới đi thăm Tân Trào-Việt Bắc và cảm thấy không vui. Trung ương mình làm quá ít cho đồng bào đã nuôi chính mình ít nhất hai lần, một lần khi Bác từ Pác Bó về Tân Trào họp Quốc dân Đại hội, một lần suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Mới chỉ làm ở đây một nhà bảo tàng. Tốt quá. Nhưng đó chỉ là hình thức. Vấn đề là DÂN, là ĐỜI SỐNG CỦA NHÂN DÂN. Tôi thấy không vui. Mới chỉ có một con đường đi xe được. Thế thôi. Còn DÂN TÌNH, còn ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN thì vẫn không ai quan tâm!
Có lẽ tôi sẽ gửi gắm tâm trạng của mình vào một bài thơ về vấn đề này. Một bài thơ tâm tình. Không dài. Nếu làm xong và nếu báo đăng, đó sẽ là bài thơ VIỆT BẮC thứ hai.
Thôi nhé, tôi đã nói xong về Nước non ngàn dặm. Còn vấn đề thứ tư là chuyện gì nhỉ?”
Đợi nhà thơ ngồi nghỉ một lát, tôi nói:
“Thưa anh, xin anh cho biết cảm nghĩ của mình về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân vật mà anh đã hoan hô trong tráng khúc Hoan hô chiến sĩ Điện Biên.”
Tố Hữu lại ho dồn dập một lúc. Nhưng gương mặt nhà thơ vẫn không biến sắc và vẫn dịu dàng. Rồi với giọng Huế hơi yếu nhưng nhẹ nhàng và lôi cuốn, ông tâm sự:
“Bây giờ, tôi sẽ trình bày cảm nghĩ của mình về đồng chí Võ Nguyên Giáp và kể một chút về việc sáng tác Hoan hô chiến sĩ Điện Biên.
Tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh đến giai đoạn mười năm 1940-1949. Đây là giai đọan Bác Hồ trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng về mọi mặt, trực tiếp uốn nắn những sai lệch của cách mạng Việt Nam mười năm trước đó.
Mười năm ấy (1940-1949), cách mạng đi từ tay trắng, đi từ số không, đi từ trứng nước. Mười năm ấy, cách mạng hoàn toàn không có hậu phương lớn trong nước và cũng hoàn toàn không có hậu phương quốc tế. Mười năm ấy, Việt Nam là một hòn đảo chơ vơ, xung quanh là đại dương dồn dập sóng thần và bão táp. Mười năm ấy, cách mạng lọt giữa vòng vây trùng trùng điệp điệp của đủ loại thù trong giặc ngoài. Mười năm ấy như Lê Lợi: “khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, khi Khôi Huyện quân không một đội”. Mười năm ấy, phá vây và đánh thốc bằng hai bàn tay trắng, đói cơm rách áo và sốt rét ngã nước. Mười năm ấy, tiến công, tiến công, tiến công liên tục như vũ bão trong sự giúp đỡ phi thường và có hiệu quả vĩ đại của đồng bào miền núi Cao Bằng và Việt Bắc. Mười năm ấy, Bác đã chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, đội chủ lực đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Mười năm ấy, Đảng ta, dưới sự chỉ đạo thiên tài của Bác Hồ, đã chớp thời cơ ngàn năm có một, tay trắng cướp chính quyền làm cách mạng Tháng Tám thắng lợi. Mười năm ấy, có một lần, để đảm bảo giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân, đồng chí Trường Chinh đã phải đau đớn tuyên bố: Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật nhưng vẫn nắm chắc ngọn cờ lãnh đạo cách mạng. Mười năm ấy, vừa đánh vừa bàn. Bác Hồ nhiều lần phải trực tiếp thực hiện những cuộc đàm phán trong thế bị bao vây với Pháp và với Tưởng ở Hà Nội. Rồi Bác và đồng chí Phạm Văn Đồng cùng nhiều vị đại trí thức phải sang đàm phán tận Pa-ri. Nhân dân có lúc nghi ngờ lòng yêu nước của Bác. Bác phải đau đớn nói rằng: Hồ Chí Minh không phải là một kẻ bán nước. Mười năm ấy, dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Trung ương Đảng đứng đầu là Bác Hồ và Tổng bí thư Trường Chinh, đồng chí Võ Nguyên Giáp phải trực tiếp đàm phán rất gay go trong thế bị bao vây với Pháp tại Hà Nội, Hải Phòng và Đà Lạt (Tây Nguyên). Rồi gần hai tháng kháng chiến với tinh thần cách mạng tiến công quyết liệt nhưng với lực lượng rất yếu trong thế bị bao vây tại thủ đô Hà Nội. Rồi cách mạng phải rút khỏi thủ đô, trở lại đại bản doanh Tân Trào, vào rừng núi, tay trắng kháng chiến suốt năm năm (cuối 1946-đầu 1950). Mười năm ấy, Liên Xô phải tập trung vào cuộc chiến tranh giữ nước khoảng năm năm (1940-1945), không giúp ta được một viên đạn và một viên thuốc và sau đó, ngót năm năm (1945-đầu 1950), Liên Xô đứng đầu là Xta-lin không công nhận chính phủ Hồ Chí Minh. Mười năm ấy, Trung Quốc phải đánh Tưởng, chưa giành được chính quyền, cũng không thể giúp được ta một cân gạo, một khẩu súng, trái lại, còn được Việt Nam giúp đánh Tưởng ở Thập Vạn Đại Sơn phía Nam Trung Quốc. Mười năm ấy, đồng chí Trần Đại Nghĩa và đồng đội đã vượt qua đủ loại khó khăn, sáng tạo thành công nhiều loại vũ khí cực mạnh. Mười năm ấy, ta phải tìm mọi cách cướp vũ khí của giặc để đánh giặc. Mười năm ấy bác bỏ mọi quan niệm sai lầm cho rằng chiến tranh cứu nước Việt Nam từ đầu đến lúc kết thúc là cuộc chiến tranh bằng vũ khí, lương thực và thuốc men của Liên Xô và Trung Quốc do người Việt Nam thực hiện. (Tất nhiên, sau đó, Liên Xô và Trung Quốc giúp ta rất nhiều).
Tóm lại, đây là giai đoạn quyết định nhất, kì diệu nhất, hiểm nghèo nhất, gian khổ nhất, phức tạp nhất, khó khăn nhất và trọng đại nhất so với bất cứ một giai đoạn nào khác trong toàn bộ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta. Nói một cách khác, bất cứ một giai đoạn nào khác trong toàn bộ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nước ta cũng không thể sánh nổi với giai đoạn này. Trong phong trào giải phóng dân tộc của tất cả các nước trên thế giới cũng không có giai đoạn nào sánh được với giai đoạn mười năm 1940-đầu 1950 nói trên.
Bất cứ một bộ óc nào giàu sức tưởng tượng đến đâu cũng không thể hình dung được đầy đủ muôn triệu hi sinh, muôn triệu khó khăn, muôn triệu gian nan và muôn triệu sáng tạo với tinh thần cách mạng tiến công tột đỉnh, mọi mặt và liên tục của toàn dân, toàn Đảng, toàn quân chúng ta trong mười năm ấy.
Không có mười năm ấy, Liên Xô vẫn tiếp tục không giúp đỡ, tiếp tục không thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh. Không có mười năm ấy, Trung Quốc, dù đã thắng Tưởng, cũng không giúp đỡ chúng ta. Không có mười năm ấy, không thể có đại thắng Biên Giới, không thể có Toàn Thắng Điện Biên Phủ, không thể có Thủ đô Hà Nội giải phóng và không thể có Miền Bắc giải phóng để sau đó, làm đường Hồ Chí Minh tuôn người, tuôn trí tuệ, tuôn của, tuôn vũ khí, tuôn lương thực, tuôn thuốc men, v.v. vào Miền Nam cùng nhân dân Miền Nam chống Mỹ thắng lợi được.
Giai đoạn 10 năm (1940-1949) và tiếp theo là giai đoạn năm năm (1950 -1955) tiêu biểu là Điện Biên Phủ đã khẳng định thắng lợi của hàng loạt nguyên lí. Nguyên lí về vấn đề tiếp nối và phát triển truyền thống giữ nước và cứu nước của dân tộc. Nguyên lí về tinh thần dám đánh đế quốc bằng tay trắng trong mấy năm đầu. Nguyên lí về thời cơ (chớp thời cơ, tạo thời cơ). Nguyên lí về đánh lâu dài. Nguyên lí về ba thứ quân. Nguyên lí về đánh và đàm. Nguyên lí về đàm phán với các nước anh em (đặc biệt là đàm với Liên Xô trong tình hình Xta-lin suốt năm năm (1945-1949) chưa công nhận chính phủ Hồ Chí Minh). Nguyên lí dựa vào sức mình là chính. Nguyên lí về cách mạng tiến công. Nguyên lí về thế đi trên đầu thù. Nguyên lí về cách đánh. Nguyên lí về tổng khởi nghĩa. Nguyên lí về ba mũi giáp công. Nguyên lí về đoàn kết quốc tế nói chung. Nguyên lí về đoàn kết với Liên Xô. Nguyên lí về đoàn kết với Trung Quốc. Nguyên lí về đoàn kết toàn dân và nguyên lí vừa kháng chiến vừa kiến quốc, v.v. Tất cả các nguyên lí ấy tạo vô số thuận lợi hết sức cơ bản về thực tiễn và lí luận cho cuộc chống Mỹ sau này. Phải nói rằng, cuộc chống Mỹ của chúng ta sau này, dù khó khăn rất lớn nhưng đã tiếp nhận được vô số thuận lợi hết sức cơ bản về thực tiễn và lí luận do cuộc chống Pháp mười bốn năm (1940-1954) đem lại.
Tôi nói như trên để thấy rằng dưới sự lãnh đạo tuyệt vời sáng suốt, tuyệt vời điêu luyện của Đảng đứng đầu là người thày Hồ Chí Minh, Tổng bí thư Trường Chinh và các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Phạm Văn Đồng, v.v., trong mười bốn năm đó (1940-1954), đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đóng góp công sức đặc biệt to lớn.
Có một chuyện cần nói.
Khoảng giữa thập kỉ 80 (thế kỷ 20), bỗng nhiên trời đất Việt Nam xuất hiện một cái tin dữ: đồng chí Võ Nguyên Giáp không phải là học trò Bác Hồ như lâu nay người ta vẫn tưởng lầm, mà là chấm chấm chấm… Vài ba ngày sau khi cái tin ấy lan ra, anh Xuân Thủy gọi điện thoại cho tôi với vẻ không vui. Anh nói: Đối với tôi, tức Xuân Thủy, từ trước đến nay và từ nay về sau, anh Văn không chỉ là một học trò trung thành mà còn là một trong những học trò tuyệt đối trung thành của Bác Hồ.
Dịp ấy, anh Đinh Đức Thiện cũng điện thoại cho tôi một cách giận dữ bác bỏ cái tin này. Anh diễn tả bản chất của cái tin đó bằng một vài từ không được nhã theo thói quen của anh mà tôi không tiện nhắc lại. Rồi vẫn qua điện thoại, anh Thiện nói tiếp: Bảo rằng anh Văn không phải là học trò của Bác Hồ tức là bảo rằng Bác Hồ sai lầm trong lựa chọn anh Văn. Rồi anh kết luận: Anh Văn là người Anh Cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tôi là thành viên trong đội quân vĩ đại ấy, vậy anh Văn là anh cả của tôi, thật sự là anh cả của tôi. Anh Thiện còn nói: Ai tung ra tin đó, người ấy phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.
Anh Xuân Thủy và anh Thiện thì như vậy. Còn tôi thì thế nào?
Đối với tôi, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã để lại nhiều kỉ niệm thắm thiết và ấm áp, dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng không thể phai nhạt.
Chẳng hạn kỉ niệm chuyến đi Ba Lan tháng 3-1959 dự Đại hội Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan. Là Trưởng đoàn, nhưng bất cứ việc gì, đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng trao đổi cặn kẽ với tôi và luôn luôn nhắc tôi nên có thơ về đất nước Sô-panh. Khi đồng chí lên diễn đàn đọc Lời chào mừng Đại hội của Đảng ta, tiếng hoan hô vang dội hết đợt này sang đợt khác. Trong chuyến đi ấy, tôi tận mắt thấy rõ sự kính trọng, niềm yêu mến hết sức sâu sắc của nhân dân, các nhà lãnh đạo, tướng lĩnh và trí thức Ba Lan đối với đồng chí Võ Nguyên Giáp. Ở Ba Lan, người ta coi Bác Hồ và sau đó, Võ Nguyên Giáp là hai biểu tượng chói lọi của lòng yêu nước, là hai biểu tượng chói lọi của chiến thắng đối với các siêu cường xâm lược.
Tôi đã được tiếp xúc với đồng chí Võ Nguyên Giáp nhiều lần trước và sau khi đồng chí ra trận. Chỉ có một điều vô cùng đáng tiếc: chưa bao giờ tôi được theo đồng chí đi chiến dịch. Tiếc nhất là không được theo đồng chí đến Điện Biên Phủ. Trong một ý nghĩa nào đó mà nói, đây chính là một mối hận của tôi. Tôi đề nghị đồng chí Trường Chinh nói với Bác cho tôi đi Điện Biên Phủ để có thực tiễn sáng tác. Đồng chí Trường Chinh trả lời: Bác bảo: chú Thi (Nguyễn Đình Thi) và nhiều chú văn nghệ khác đi theo chú Văn lên Điện Biên Phủ rồi, nếu chú Lành đi nốt thì ai giúp Bác và chú Trường Chinh viết thư thảo hịch. Thông qua đồng chí Trường Chinh, Bác dặn tôi: ở nhà, nhưng vẫn phải theo dõi thật sát diễn biến của trận đánh vĩ đại này để sau khi nghe được tin chiến thắng chú Giáp báo về là phải có thơ ngay. Toàn thắng ở Điện Biên Phủ, đó là một quyết tâm, một điều chắc chắn, một mệnh lệnh của Đảng. Bác nhấn mạnh như thế với đồng chí Trường Chinh.
Cơ quan xã tôi ở xa Văn phòng Tổng bí thư Trường Chinh nhưng sáng mồng 7-5-1954, tôi đã có mặt ở Văn phòng Tổng bí thư. Buổi tối cùng ngày, đồng chí Trường Chinh nhận được tin Điện Biên Phủ toàn thắng. Anh Phan Hạo, Thư kí quân sự của Tổng bí thư do Bộ Quốc phòng biệt phái sang, rất bận vào những ngày giờ đó.
Tối mồng 7-5-1954, ngay sau khi nhận được tin Điện Biên Phủ toàn thắng, tôi viết Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Trong vài giờ, tôi viết xong bài thơ về cơ bản.
Sáng hôm sau, mồng 8-5-1954, tôi được Bác Hồ gọi lên gặp Bác về công tác tư tưởng tại nơi Người làm việc gần đấy. Người phê bình chúng tôi đêm qua vui chiến thắng làm ầm ĩ cả một vùng rừng núi bí mật của Trung ương. Bác bảo: Điện Biên Phủ là trận thắng vĩ đại nhưng dù sao, đó cũng chỉ là thắng lợi bước đầu. Sắp tới đây, sẽ phải đánh Mỹ lâu dài và gian khổ.
Thế là, ngay sau khi nghe được lời dự đoán thiên tài của Bác, tôi viết thêm vào Hoan hô chiến sĩ Điện Biên hai dòng cuối cùng: Và trận thắng Điện Biên/ Cũng mới là bài học đầu tiên.
Là người đầu tiên đọc bài thơ, đồng chí Trường Chinh khuyên tôi: về Toàn Thắng Điện Biên Phủ, sau này, nên viết một trường ca. Đồng chí khen bốn câu “Bác đang cúi xuống bản đồ/ Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo/ Từ khi vượt núi qua đèo/ Ta đi Bác vẫn nhìn theo từng ngày” là chân thực và có âm vang thơ cổ điển.
Lượm, Giữa thành phố trụi, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Bắc, Ta đi tới, Lại về, Ê-mi-li… con, Bác ơi, Theo chân Bác, Nước non ngàn dặm và một số bài thơ khác là những bài tôi ưng ý bậc nhất trong toàn bộ sáng tác của mình.
Tôi còn giữ được nhiều hình ảnh anh Văn và tôi chụp chung với nhau trong suốt hai cuộc kháng chiến và trong nhiều năm sau ngày giải phóng miền Nam. Hôm nào, anh bảo nhà tôi đưa cho anh xem những tấm ảnh đó.
Sau các hình ảnh Nhân dân, Đảng và Bác Hồ, thì hình ảnh đồng chí Võ Nguyên Giáp là một nguồn cảm hứng thơ dào dạt trong tôi. Có thể nói: khi viết bất cứ câu thơ nào về Bác Hồ và Quân đội Nhân dân của chúng ta, tôi cũng đều nghĩ đến đồng chí Võ Nguyên Giáp. Đến nay, tôi vẫn thấy xúc động khi đọc lại mấy câu: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên/ Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp/ Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp.
Tôi “hoan hô” đồng chí Võ Nguyên Giáp suốt cuộc chống Pháp. Sang cuộc chống Mỹ, tôi càng “hoan hô”. Đến nay, tôi “hoan hô” nhiều hơn nữa. “Hoan hô” đồng chí Võ Nguyên Giáp, học trò tuyệt đối trung thành của Bác Hồ, có gì là sai?
Năm 1972, tôi sang Ý dự đại hội Đảng Cộng sản Ý. Hàng vạn người Ý, nhất là thanh niên, hô vang khắp nơi: Việt Nam li-bê-rô (Việt Nam tự do), Hồ Chí Minh, Điện Biên Phủ, Giáp Giáp! Năm 1974, tôi dự đại hội Đảng Cộng sản Tây Đức. Ở Tây Đức, Bác Hồ và sau đó là đồng chí Võ Nguyên Giáp được coi như hai biểu tượng tập trung nhất của phong trào giải phóng dân tộc toàn thế giới.
Ấy thế mà có tin đồn: ông Tố Hữu, vào dịp kỉ niệm 30 năm Điện Biên Phủ (1984), đã xóa câu thơ “Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp”.
Xin bạn đọc cứ yên tâm: Tố Hữu Nguyễn Kim Thành chưa một chút nào phai nhạt tình yêu đối với đồng chí Võ Nguyên Giáp!
Sau ngày Toàn thắng 30-4-1975, vào những thời điểm khác nhau, các anh Xuân Thủy, Trần Đại Nghĩa, Đinh Đức Thiện, Nguyễn Văn Linh, Trần Văn Trà, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Hữu Thọ, v.v. đều gợi ý với tôi là nên viết một trường ca trong đó có hình ảnh Bác Hồ và các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Bản thân tôi cũng có ý định làm một trường ca về cách mạng 1940-1975. Nhưng do công việc bộn bề, đến nay vẫn chưa làm được. Nếu viết trường ca ấy, tôi sẽ bổ sung vào ba câu “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên/ Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp/ Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp” bằng cách thêm một câu: Hoan hô chiến sĩ Việt Nam, bỏ chữ “giặc” và thay bằng chữ MỸ:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Hoan hô chiến sĩ VIỆT NAM Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp Sét đánh ngày đêm xuống đầu MỸ-Pháp.
Trên hai lĩnh vực chính trị, quân sự và trên các lĩnh vực khác, đồng chí Võ Nguyên Giáp chính là phiên bản sinh động và đậm nét của Bác Hồ: lấy nhu trị cương, lấy nhược trị cường, biết lúc nào cần đi tới, biết lúc nào cần dừng lại, biết im lặng, biết đợi chờ, biết nghiền ngẫm một thế cờ để rồi đi một nước cờ quyết định, biết chiến trường cần gì và phải biết đem những gì đến chiến trường, biết lùi một bước thu mình lại rồi bất chợt lao vút lên phía trước như một con mãnh hổ vồ mồi làm cho giặc trở tay không kịp.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp chưa một lần thua trận, chỉ có khoảng 20% là những trận hòa, còn khoảng 80% là những trận thắng. Đó thật sự là một ông Tổng tư lệnh trăm trận trăm thắng, un généralissime invincible. Trên phạm vi toàn cầu trong thế kỉ 20, đó là trường hợp duy nhất.
Thế giới người ta gọi đồng chí Võ Nguyên Giáp là thiên tài, là huyền thoại, là vĩ đại, là kiệt xuất. Đúng. Rất đúng. Hoàn toàn đúng. Dưới sự lãnh đạo của một Đảng chân chính và trí tuệ như Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là một bậc thày về nhiều mặt như Hồ Chí Minh và sau đó, là những nhà cách mạng tài ba - lỗi lạc như Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phạm Văn Đồng (thời chống Pháp), Lê Duẩn (thời chống Mĩ), một ông Tổng tư lệnh như Võ Nguyên Giáp suốt 31 năm chỉ huy một quân đội như Quân đội Nhân dân Việt Nam lập nên những chiến công vĩ đại và kỳ diệu làm chấn động bốn biển năm châu như Điện Biên Phủ thì ông Tổng tư lệnh ấy tất yếu phải được gọi là huyền thoại, là vĩ đại.
Có bốn điều tôi cần xác nhận:
Một: Ngay sau ngày 30-4-1975, trong một cuộc họp Bộ Chính trị, chính đồng chí Lê Duẩn đứng lên trịnh trọng nói: Miền Nam đã hoàn toàn được giải phóng. Nếu còn sống, Bác Hồ sẽ thay mặt Đảng, Chính Phủ vào miền Nam chúc mừng Ngày Toàn Thắng. Nay Bác không còn nữa, trước anh linh Bác, tôi xin đề nghị Bộ Chính trị cho tôi thay mặt Đảng và Chính phủ và đồng chí Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương và quân đội cùng vào ngay Sài Gòn và miền Nam chúc mừng nhân dân và các Đảng bộ miền Nam. Toàn thể Bộ Chính trị xúc động nhất trí với đề xuất kịp thời, đúng đắn và thuận lòng người của anh Ba.
Sáng mồng 8-5-1975, đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng đáp chuyên cơ từ thủ đô Hà Nội vào Sài Gòn. Ra sân bay Tân Sơn Nhất đón anh Ba và anh Văn, có Bác Tôn Đức Thắng, các anh Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ và Đại tướng Văn Tiến Dũng.
Ít lâu sau, anh Lê Trọng Tấn và anh Trần Văn Trà kể cho tôi: đồng chí Võ Nguyên Giáp sau khi tới Sài Gòn, với tư cách Tổng Tư lệnh, đã đến thăm Quân đoàn 2, quân đoàn có đơn vị xe tăng đầu tiên tiến vào dinh Độc Lập. Anh Tấn còn tặng tôi một cuốn sách ảnh mỏng giới thiệu Quân đoàn 2 và giới thiệu chuyến thăm Quân đoàn 2 của đồng chí Võ Nguyên Giáp. Cả anh Tấn lẫn anh Trà đều nói: một nhà quay phim đã quay đầy đủ chuyến vào Sài Gòn lịch sử mừng Ngày Toàn Thắng đó của anh Ba và anh Văn. Tôi đã được xem cuốn phim ấy.
Hai: Suốt cuộc chống Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn là Tổng tư lệnh. Thông báo về Lễ tang Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (tháng 7 năm 1967) có ghi rõ: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chính tôi là một trong những người được đọc bản thảo Thông báo đó trước khi đưa in trên báo Nhân Dân và báo Quân Đội Nhân Dân.
Ba: Sau Đại hội Đảng lần thứ ba (1960), Bộ Chính trị cử Ban Thường trực trực tiếp theo dõi và chỉ đạo cách mạng giải phóng miền Nam gồm nămđồng chí Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Phạm Hùng, Nguyễn Chí Thanh và Văn Tiến Dũng. Sau khi anh Thanh qua đời tại Hà Nội, anh Phạm Hùng thay anh Thanh, Bộ Chính trị bổ sung thêm hai anh Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn vào Ban Thường trực.
Bốn: Đồng chí Võ Nguyên Giáp từ trước đến nay đã và đang là một trong những hạt nhân đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Qua khoảng 40 năm (1947-1987) công tác gần gũi đồng chí Võ Nguyên Giáp, tôi nhận thấy: ở đồng chí, khó mà tách biệt đâu là con người lí luận, đâu là con người thực tiễn. Vì sao? Vì đồng chí không bao giờ vội vã và chủ quan lấy bất cứ một nguyên lí nào áp đặt vào thực tiễn chiến trường và ngược lại, cũng không bao giờ lấy thực tiễn chiến trường để sửa chữa hoặc thay đổi bất cứ một nguyên lí nào một cách chủ quan và vội vã. Nói một cách khác, trong con người đồng chí Võ Nguyên Giáp luôn luôn có một sự thống nhất biện chứng giữa thực tiễn và lí luận. Đồng chí luôn luôn giữ được sự cân bằng giữa lí luận và thực tiễn trong việc điều binh khiển tướng suốt hai cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Bác Hồ và các đồng chí Trường Chinh, Lê Duẩn.
Ở đồng chí Võ Nguyên Giáp còn có một đặc điểm nữa: biết nhìn gần nhưng cũng biết lo xa. Nói một cách khác, đồng chí Võ Nguyên Giáp biết chớp thời cơ, biết đón thời cơ, biết tạo thời cơ nhưng cũng biết dự kiến cả những tình huống xấu xuất hiện bất ngờ để không rơi vào thế bị động, để luôn luôn giữ vững thế chủ động trong đấu tranh cách mạng nói chung và đấu tranh vũ trang nói riêng.
Là một nhà chiến lược như vậy, một nhà chiến thuật như vậy, một ông Tổng tư lệnh như vậy cho nên đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tránh được sai lầm chủ quan, tránh được sai lầm say sưa vì thắng lợi.
Là một nhà chiến lược như vậy, một nhà chiến thuật như vậy, một ông Tổng tư lệnh như vậy cho nên đồng chí Võ Nguyên Giáp được toàn quân tin tưởng và noi gương, yêu mến và kính trọng.
Tôi đã được dự một số cuộc họp của Bộ Chính trị bàn về vấn đề giải phóng miền Nam sau Hiệp định Pa-ri. Tại những cuộc họp lịch sử này, bên cạnh nhiều ý kiến chỉ đạo sắc sảo của đồng chí Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn, là những lời phát biểu rành mạch và chặt chẽ, những ý kiến sáng suốt và đầy kinh nghiệm phân tích chiến trường của đồng chí Võ Nguyên Giáp.
Tôi cần nhấn mạnh một điều: Tháng 4-1973, sau khi Hiệp định Pa-ri được kí kết vài tháng, Bộ Tổng tham mưu đã lập ra Tổ trung tâm để dự thảo kế hoạch giải phóng miền Nam do đồng chí Võ Nguyên Giáp với tư cách là Bí thư Quân ủy Trung ương-Tổng tư lệnh và đồng chí Văn Tiến Dũng với tư cách Tổng tham mưu trưởng chỉ đạo; các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái cùng một số đồng chí khác trong Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu và chấp bút nhiều lần. Đồng chí Lê Duẩn luôn luôn được nghe báo cáo về việc này. Hạ tuần tháng 7-1974, tại Đồ Sơn, đồng chí Lê Duẩn đã chỉ thị nhiều điều quan trọng cho hai tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn. Hai anh Thái và Tấn đã báo cáo lại với đồng chí Võ Nguyên Giáp. Anh Giáp và anh Dũng, sau đó, tiếp tục chỉ đạo Tổ Trung tâm bổ sung bản Dự thảo kế hoạch giải phóng Miền Nam theo các chỉ thị ở Đồ Sơn của anh Ba.
Về các bản Dự thảo kế hoạch đặc biệt quan trọng này, anh có thể hỏi Trung tướng Lê Hữu Đức, Cục phó rối sau là Cục trưởng Cục Tác chiến hồi ấy, và một vài đồng chí khác hồi ấy cũng đã từng công tác trong Cục Tác chiến nay còn sống. Các bản Dự thảo đó chính là cơ sở căn bản cực kì quan trọng trong mấy cuộc họp lịch sử giữa Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và các đồng chí lãnh đạo chiến trường Miền Nam để quyết định thông qua Kế hoạch hai năm giải phóng Miền Nam 1975-1976 bắt đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên.
Tôi nhắc lại: anh nên gặp Trung tướng Lê Hữu Đức (tức Đức Cụt). Anh Đức, theo tôi biết, là một quân nhân cách mạng trung thực, can đảm, dám nghĩ, dám nói, dám chịu trách nhiệm. Vào thời điểm quyết liệt sau khi Hiệp định Pa-ri được kí kết, việc chọn được một Cục trưởng cục Tác chiến như “tay” Đức là một điều có ý nghĩa tích cực. Đức Cụt sẽ trình bày rõ hơn nữa về các bản Dự thảo kế hoạch giải phóng Miền Nam nói trên cho anh nghe.
Muốn hiểu thêm về đồng chí Võ Nguyên Giáp, bên chính trị và quân sự, anh nên gặp các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Hoàng Minh Thảo, Đồng Sĩ Nguyên, Phùng Thế Tài, Hoàng Cầm, Cao Pha, Đoàn Huyên, Trần Văn Giang, v.v. Bên văn hóa, nên gặp anh Huy Cận, cụ Vũ Đình Hòe, v.v. Rất tiếc, các tướng giỏi như Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái, Vương Thừa Vũ, Đinh Đức Thiện, v.v. và các vị đại trí thức như Trần Đại Nghĩa, Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Tôn Thất Tùng, v.v. là những người hiểu sâu sắc về đồng chí Võ Nguyên Giáp trong những giai đoạn khác nhau của sự nghiệp cứu nước đều đã qua đời.
Nhân đây, tôi nói để chúng ta rõ: anh Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) đặc biệt quý mến và đánh giá rất cao đồng chí Võ Nguyên Giáp. Chính anh Linh nhiều lần nói với tôi: Anh Giáp là một trong những học trò trung thành nhất và sáng tạo nhất của Bác Hồ; anh Giáp là người có uy tín lớn trong toàn dân, toàn Đảng và toàn quân. Anh Trần Đại Nghĩa có lần bảo tôi: trên lĩnh vực quân sự và quân chính, phải nhiều thế kỉ nữa mới có thể xuất hiện một Võ Nguyên Giáp thứ hai.
Lịch sử phải biết ơn Người Thày Hồ Chí Minh về việc chính Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nhận ra tài và đức của Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp và nhanh chóng trao các trọng trách bậc nhất cho hai đồng chí. Tuy nhiên, tôi nghĩ: lịch sử cũng phải biết ơn Ban Thường vụ Trung ươngĐảng đặc biệt là đồng chí Hoàng Văn Thụ về việc đã nhất trí tiến cử hai đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc gặp Bác Hồ.
Nhân dân Việt Nam và Quân đội Việt Nam có quyền tự hào vì đã sản sinh ra một ông Tổng tư lệnh như Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Nhìn tổng quát, Võ Nguyên Giáp là một nhà chiến lược lớn (un grand stratège), một nhà chính trị có đức độ cao siêu (sublimes vertus). Một con người có óc sáng tạo (óc sáng tạo, tiếng Pháp gọi là esprit constructif hoặc esprit créateur), một con người đạo đức (attitude morale), một vị Tổng tư lệnh trăm trận trăm thắng (un généralissime invincible), một con người có tri thức siêu việt (savoir suréminent), một bậc thày về nghệ thuật quân sự (maitre en art militaire). Cuộc đời Võ Nguyên Giáp là một cuộc chiến đấu liên tục, sa vie est un combat perpétuel.
Suốt hai cuộc kháng chiến, dưới sự lãnh đạo tài giỏi và thận trọng, dũng cảm và vững vàng của tập thể Đảng đứng đầu là Bác Hồ và hai đồng chí Trường Chinh, Lê Duẩn, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã lập nên một sự nghiệp vĩ đại, une oeuvre grandiose, và luôn đứng vững ở tư thế người chiến thắng, position de vainqeur.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp là một trong những nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước gìn giữ sự trong sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, tư tưởng, tổ chức, đoàn kết và văn hóa một cách triệt để và có hiệu quả rất cao ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp là một nhà mác-xit chân chính có học vấn sâu rộng. Nhưng trước hết và căn bản, đồng chí là một nhà yêu nước chân chính thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, thấm nhuần truyền thống đoàn kết Việt Nam, truyền thống văn hóa Việt Nam, truyền thống giáo dục Việt Nam đến tận óc, tận tim, tận xương, tận tủy.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp còn là một nhà lí luận quân sự có đóng góp đặc biệt to lớn cho nền lí luận quân sự Việt Nam và thực hiện thành công nhất tư tưởng Hồ Chí Minh trên lĩnh vực quân sự. Chỉ riêng quan niệm về vấn đề cách mạng tiến công của đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng đủ chứng tỏ đồng chí là một nhà lí luận quân sự có tầm tư duy sâu rộng khác thường rồi.
Hàng loạt bài báo rực lửa yêu nước trước cách mạng Tháng Tám và từ cách mạng Tháng Tám đến nay của đồng chí Võ Nguyên Giáp cần được giới thiệu có hệ thống cho các thế hệ hôm nay và mai sau hiểu rõ.
Tôi rất tiếc báo chí ngành giáo dục còn giới thiệu quá ít về Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng, hai nhân vật lịch sử lớn vốn là nhà giáo.
Nói đến cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, nói đến chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, nói đến Quân đội Nhân dân Việt Nam, không thể bỏ qua vấn đề tư tưởng cách mạng tiến công. Vì vậy, nhân đây, tôi muốn nói lên suy nghĩ của mình về vấn đề cách mạng tiến công, một vấn đề lớn được nhắc đến rất nhiều trong khoảng nửa sau của cuộc chống Mỹ.
Ở nước ta, trên lĩnh vực quân sự, tư tưởng cách mạng tiến công, thật ra đã có từ thời Hai Bà Trưng và trước đó. Tất nhiên, thuở ấy chưa xuất hiện cụm từ “tư tưởng cách mạng tiến công” như thời chống Mỹ. Nhưng nếu chính Hai Bà và tướng sĩ của Hai Bà không thấm nhuần tư tưởng tiến công thì làm sao chỉ trong chỉ trong vòng vài ba ngày lại giải phóng được 65 thành trì, giải phóng được cả nước? Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Thủ Độ, Lê Tần, Trần Quốc Tuấn hai lần tạm rút khỏi Thăng Long để rồi hai lần quật nát đại quân Nguyên Mông, giải phóng Thăng Long, đó cũng chính là biểu hiện chói lọi của tư tưởng tiến công! Lê Lợi rút về núi Chí Linh (Thanh Hóa) và bị bao vây phải ăn thịt voi chiến, ngựa chiến nhưng vẫn phá vây thắng lợi. Tiến công đấy chứ! Ai dám bảo việc rút quân về Chí Linh (Thanh Hóa) của Lê Lợi là biểu hiện của tư tưởng sợ Trương Phụ? Ngô Thời Nhiệm rút quân về Tam Điệp nhưng ai dám bảo Ngô Thời Nhiệm là nhút nhát, sợ quân Thanh? Đó là cuộc rút quân của Quang Trung và dưới sự chỉ huy thiên tài của Quang Trung, chỉ trong mấy ngày, quân ta ào ạt tổng phản công và tổng tiến công đè bẹp giặc Thanh!
Ngay từ năm 1942, trong Nhật kí trong tù, Bác Hồ đã viết: Tiến công, phòng thủ nhanh như chớp/ Kiên quyết không ngừng thế tiến công. Và Tiến công, phòng thủ không sơ hở. Như vậy, từ ba năm trước khi bùng nổ cách mạng Tháng Tám, Bác Hồ cũng đã viết rất rõ về tư tưởng cách mạng tiến công rồi đó!
Phai Khắt-Nà Ngần là cách mạng tiến công! Cuộc chiến đấu quyết liệt gần hai tháng cuối 1946- đầu 1947 để bảo vệ thủ đô chính là biểu hiện rực rỡ của thế cách mạng tiến công! Ai dám bảo cuộc rút lui của Trung đoàn Thủ Đô tháng 2-1947 là biểu hiện của tư tưởng sợ Pháp? Đại thắng Biên Giới (1950) đó là cách mạng tiến công! Đại tiến công Điện Biên Phủ, đó là cách mạng tiến công! Đại tiến công Điện Biên Phủ, đó chính là đại tiến công trong chiến lược, đại tiến công trong chiến thuật và đại tiến công trong tác chiến! Tất cả các trận đánh, các chiến dịch từ Phai Khắt- Nà Ngần cuối 1944 đến Điện Biên Phủ 1954 đều là tiến công, tiến công, đại tiến công, đều là cách mạng tiến công quyết liệt và càng ngày càng quyết liệt. Bốn phương châm lớn tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt của quân đội ta thời kháng chiến chống Pháp, đó chính là biểu hiện cao nhất của tư tưởng tiến công, chính là biểu hiện cao nhất của tư tưởng cách mạng tiến công! Từ ngữ trong hai cuộc kháng chiến tuy khác nhau nhưng nội dung đều là tiến công và đều là cách mạng tiến công cả.
Rõ ràng, tư tưởng cách mạng tiến công không phải đến thời chống Mỹ mới xuất hiện. Trái lại, nó đã trở thành truyền thống cực kì quý báu của dân tộc ta từ thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu rồi phát triển qua các triều đại Ngô, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn. Nó phát triển theo lịch sử giữ nước và dựng nước của dân tộc. Nó đặc biệt phát triển mãnh liệt trong giai đoạn chống Pháp 1944-1954 và sau đó, tiếp tục phát triển trong cuộc chống Mỹ 1955-1975 như chúng ta đã biết. Thời sau tiếp nhận kinh nghiệm thời trước nhưng sáng tạo thêm những điểm mới để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Trong bài thơ Phút giây, tôi đã viết:
Vẫn là ta đó những khi Đầu vai ra trận cứu nguy giống nòi [1]
Vào những thời điểm khác nhau, các đồng chí Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Trần Văn Trà, Đinh Đức Thiện và nhiều đồng chí khác đều nói với tôi quan niệm dưới đây của đồng chí Võ Nguyên Giáp về vấn đề cách mạng tiến công:
Tiến công, tiến công và tiến công, điều đó hoàn toàn không có nghĩa là loại trừ phòng ngự. Phòng ngự không phải là điều cấm kị trong chiến tranh cách mạng.
Trong tác chiến, nghĩa là trong khi chiến đấu ở mặt trận, mener une opération militaire, quân đội cách mạng luôn luôn giữ vững ý chí tiến công, chỉ tiến chứ không lùi. Nhưng trong từng chiến dịch, trong chiến thuật và thậm chí trong chiến lược, không phải bất cứ giai đoạn nào, không phải bất cứ ở đâu cũng chỉ có tiến công; trái lại có khi phải phòng ngự, thậm chí phải rút lui. Nghĩa là có khi phải phòng ngự trong chiến dịch, phòng ngự trong chiến thuật, phòng ngự trong chiến lược. Nghĩa là, có khi phải rút lui trong chiến dịch, rút lui trong chiến thuật, rút lui trong chiến lược. Quan niệm đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã phát biểu nhiều lần thời chống Mỹ.
Đó là tư duy, là lập luận, là quan niệm của đồng chí Võ Nguyên Giáp. Một tư duy cao. Một lập luận chặt. Một quan niệm đúng.
Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Ngô Thời Nhiệm, Cu-tu-dốp, Hồng quân Liên Xô, Trung đoàn Thủ Đô năm 1947, v.v. đều thực hiện phòng ngự chiến lược, rút lui chiến lược đấy chứ! Nhưng trong tác chiến, trong chiến đấu tại mặt trận, quân đội của Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Ngô Thời Nhiệm, Cu-tu-dốp, Hồng quân Liên Xô, Trung đoàn Thủ Đô, v.v. đều bừng bừng khí thế tiến công.
Khoảng tháng 6-1969, anh Xuân Thủy có nói với tôi: anh vừa mới được dự mấy cuộc họp của Bộ Chính trị để báo cáo với Bác Hồ và đồng chí Lê Duẩn về tình hình mấy tháng đầu của hội nghị Pa-ri. Tại các cuộc họp ấy, anh nhận thấy đồng chí Võ Nguyên Giáp vẫn tiếp tục thể hiện một năng lực tư duy sâu sắc và sáng suốt, một năng lực lập luận rành mạch và hùng hồn như anh đã từng thấy trong nhiều cuộc họp Ban Chấp hành Trung ương trước đó.
Anh Xuân Thủy nhấn mạnh: lập luận của anh Văn bao giờ cũng là lập luận rất biện chứng, raisonnenment très dialectique. Anh Xuân Thủy đệm bằng tiếng Pháp.
Khoảng giữa những năm 80 (thế kỷ 20), trong một lễ kỉ niệm lớn ở Hội trường Ba Đình, anh Xuân Thủy bảo tôi: Cứ nghĩ đến anh Văn thì tôi (tức Xuân Thủy) lại nhớ đến câu thành ngữ tiếng Pháp “Il sail bien se retenir” (tôi-Tố Hữu tạm dịch: người đó rất biết tự kiềm chế, người đó khéo nhẫn nhịn lắm). Anh khẳng định với tôi: Võ Nguyên Giáp là một trong những nhân vật vĩ đại của lịch sử thế giới, une des grandes figures de l’histoire du monde. Nguyên văn tiếng Pháp của anh Xuân Thủy.
Về phần mình, tôi đã nhiều lần nói với các anh Nguyễn Văn Linh, Xuân Thủy, Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái, Đinh Đức Thiện và nhiều anh khác: Do uy tín rất to lớn của mình trong toàn dân, toàn Đảng, toàn quân trên trường quốc tế; do sự trung thành cao độ của mình với tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Nguyên Giáp xứng đáng được giữ cương vị Chủ tịch Nước hoặc một cương vị tương đương nào khác. Các anh đều nhất trí với ý kiến đó của tôi.
Tôi cũng đã nhiều lần nói với nhà tôi ý kiến trên đây. Anh có thể gặp cô Thanh, nhà tôi, để hỏi xem có nói đúng như thế hay không.”
Nhà thơ lại ho và im lặng nhìn tôi một lát.
[1]Phút giây (Thơ Tố Hữu-Tập Một tiếng đờn -1992)
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php/showFile.php?res=3216&rb=0102
15.11.2004
Nhật Hoa Khanh
(Những tâm sự của nhà thơ Tố Hữu) 5 kỳ
Tôi hỏi Tố Hữu vấn đề thứ năm, vấn đề cuối cùng, với tất cả sự dè dặt:
“Lâu nay, có dư luận, Tố Hữu hay ‘đánh’ những người làm công tác văn hóa, văn nghệ và khoa học. Vậy anh cho biết ý kiến của mình về vấn đề thứ năm: quan hệ của anh với các nhà văn nghệ và các nhà trí thức.”
Gương mặt Tố Hữu vẫn dịu dàng và không hề biến sắc. Nhà thơ lại ho liên tiếp mấy lần. Để cho thời gian lặng lẽ trôi khoảng hai phút, ông bắt đầu trả lời. Giọng Huế của nhà thơ tuy nhỏ nhưng vẫn ấm áp, rõ ràng:
“Về vấn đề quan hệ của tôi đối với các nhà văn nghệ và các nhà trí thức, tôi chỉ kể lại mấy chuyện dưới đây.
Chẳng hạn chuyện liên quan đến Búp sen xanh của nhà văn Sơn Tùng.
Búp sen xanh là cuốn tiểu thuyết ra đời năm 1982 viết về người thanh niên Nguyễn Tất Thành và tình yêu của anh trước khi anh rời bến Nhà Rồng tìm đường cứu nước. Trên báo chí, một số người phê phán Sơn Tùng. Chuyện Nguyễn Tất Thành yêu đương, Nguyễn Tất Thành chia tay với người yêu tại bến Nhà Rồng, họ bảo: viết như thế là cải lương, là mùi mẫn, là xuyên tạc Nguyễn Tất Thành. Ác nữa, một số người nào đó còn ngầm bảo rằng chính ông Tố Hữu chỉ đạo “đánh” Búp sen xanh, chính ông Tố Hữu chỉ đạo một số cây bút viết như vậy. Với những người có tâm địa đen bạc ấy, tôi không cãi nhau với họ.
Tôi biết rõ tác giả Sơn Tùng từ mấy chục năm trước. Một con người khảng khái: Sơn Tùng! Một nhà văn và một nhà báo có ý thức tìm tòi: Sơn Tùng! Sơn Tùng đã từng tình nguyện vào Nam với một cây bút, rồi bị thương nặng, được đưa ra Bắc.
Tôi cũng biết rõ: ngay sau ngày giải phóng miền Nam, mặc dầu các vết thương còn rỉ máu, từ Hà Nội, Sơn Tùng lại lặn lội vào Sài Gòn và nhiều địa phương Trung Bộ, Nam Bộ, kể cả Đồng Tháp, để tìm kiếm các loại tư liệu về Bác Hồ và tư liệu về những người thân của Bác. Chị Phan Hồng Mai, tức chị Sơn Tùng, cùng đi để giúp đỡ chồng suốt mấy tháng gian nan.
Tôi còn biết: hai anh chị phải bán cả nhẫn cưới và xe đạp cũ để có tiền phục vụ chuyến đi. Người phụ nữ Việt Nam ấy, chị Sơn Tùng, xứng đáng được tặng thưởng tám chữ nhẫn nại, âm thầm, yêu chồng, yêu nước.
Khi cầm Búp sen xanh trên tay, tôi nghĩ ngay: Sơn Tùng và tôi không hẹn mà đã gặp nhau ở đề tài HỒ CHÍ MINh, gặp nhau trong hình ảnh LÀNG SEN quê Bác.
Cách đây 27 năm, năm 1970, trong trường ca Theo chân Bác, tôi đã viết: Tôi trở về quê Bác, làng Sen/ Ôi hoa sen đẹp của bùn đen/ Làng quen như thể quê chung vậy/ Mấy dãy ao chua, mảnh đất phèn.
Trên lĩnh vực văn chương, thế là Sơn Tùng và tôi cùng nắm tay nhau về quê Bác và cũng là quê chung của tất cả chúng ta.
Đọc Búp sen xanh, tôi xúc động. Một trong những đoạn gây xúc động mạnh nhất chính là đoạn Nguyễn Tất Thành chia tay Út Huệ ở bền Nhà Rồng. Văn Sơn Tùng không bắt chước ai và cũng không ai bắt chước được. Văn Sơn Tùng chứa chan cảm xúc. Văn Sơn Tùng chính là tình yêu của tác giả đối với Nguyễn Tất Thành. Văn Sơn Tùng phảng phất hơi văn của những nhà nho xứ Nghệ. Sơn Tùng hóa thân vào hai nhân vật Nguyễn Tất Thành và Út Huệ một cách sống động và tự nhiên. Anh Xuân Thủy đã đọc Búp sen xanh và có lần nói với tôi: Văn Sơn Tùng trongBúp sen xanh chính là lệ rơi thấm đá…
Sau này, được đọc thêm một vài tác phẩm của Sơn Tùng, tôi càng nhận rõ: anh ngày đêm sống với tư tưởng của Bác Hồ. Anh vui khi thấy tư tưởng Hồ Chí Minh toàn thắng trên lĩnh vực quân sự. Anh đau, anh nấc nghẹn khi thấy tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được thực hiện tốt trên nhiều lĩnh vực khác.
Khoảng năm 1990, tôi được đọc bài báo Một nhân tướng trong thời đại Hồ Chí Minh của Sơn Tùng. Bài ấy như một cây tùng sừng sững giữa trời. Đúng như vậy! Vào thời điểm 1990, bài ấy như một cây tùng giữa trời sừng sững! Tác giả là một trong những người Việt Nam đầu tiên khẳng định Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một thiên tài, một nhân tướng (tướng nhân văn chủ nghĩa), một tâm hồn nghệ sĩ và một con người trong sạch. Với bài này, Sơn Tùng đã góp phần rất sớm vào việc đánh giá nhân vật lịch sử Võ Nguyên Giáp.
Lâu nay, trên lĩnh vực phê bình văn nghệ, có một số ít người không tốt. Muốn “đánh” ai, họ cứ tung một cái tin là “ông này ông nọ” “chỉ đạo”. Trên báo chí, họ ngụy biện bằng cách thay từ “đánh” bằng từ “phê phán” và họ gào thét: phê phán là để “bảo vệ” nguyên lí này, nguyên lí khác của văn nghệ cách mạng. Họ sử dụng cái xảo thuật “mượn oai hùm” để hãm hại đồng nghiệp. Tôi biết quá đi chứ!
Họ tung tin: ông Tố Hữu “chỉ đạo” ban nọ ban kia hoặc báo này báo khác “đánh” Búp sen xanh mà tôi vừa nói ở trên. Họ dựng đứng chuyện: ông Tố Hữu cắt bỏ câu “Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp” trong bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Họ ném hỏa mù: ông Tố Hữu “đánh” Quang Dũng, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân, Văn Cao, Nguyên Hồng, Tô Vũ, Phùng Quán, Phùng Cung, Trương Tửu, Phan Khôi, Đào Duy Anh, Phan Ngọc, Nguyễn Hữu Đang, Đặng Đình Hưng, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, v.v. Họ vu khống: Tố Hữu “đánh” cả Nguyễn Đình Thi, chỗ ngồi của anh Nguyễn Đình Thi ở đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ ba là do Tố Hữu quyết định.”
Nói đến đây, nhà thơ Tố Hữu lại ho nhẹ, ho nhiều. Tuy nhiên, gương mặt ông vẫn hoàn toàn giữ được vẻ dịu dàng ban đầu và vẫn không biến sắc.
Tác giả Giữa thành phố trụi [1] nói tiếp:
“Dưới đây, tôi sẽ phát biểu cảm nghĩ của mình về một số đồng nghiệp và một số nhà trí thức.
Trước hết về Văn Cao.
Cũng như các anh Nguyễn Văn Linh, Trần Đại Nghĩa, Huỳnh Tấn Phát, Trần Văn Trà, Xuân Thủy, Đinh Đức Thiện, v.v., tôi chưa bao giờ “thông” với chủ trương thay đổi Quốc ca. Từ cách mạng Tháng Tám đến suốt hai cuộc kháng chiến, Tiến quân ca là Dân tộc, là Nhân dân, là Đảng, là Bác Hồ, là Quân đội Nhân Dân, là xương máu của mấy triệu thương binh và liệt sĩ, là “kèn gọi quân văng vắng cánh đồng", không thể thay đổi được, không ai có quyền thay đổi! Lịch sử sẽ mãi mãi ghi nhớ hình ảnh đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp hạ lệnh cho pháo binh nổ súng mở màn trận đại chiến Điện Biên Phủ và ngay khi pháo binh nổ súng xong thì bộ phim xông lên đồi Him Lam (Béatrice) giữa tiếng nhạc Tiến quân ca và Chiến sĩ Việt Nam vang rền từ chiến hào do các anh Hoàng Vân (ắc-coóc-đê-ông), Trần Ngọc Xương (vi-ô-lông), Văn Tiến (sáo) và Đỗ Nhuận (sáo) hợp tấu.
Văn Cao là một trong những nhạc sĩ lớn nhất về ca khúc trữ tình và ca khúc chiến đấu ở nước ta. Văn Cao cũng là một trong những ngôi sao thế kỉ 20 trên lĩnh vực ca khúc thế giới.
Thiên thai (nhạc: Văn Cao, lời: Văn Cao và Hoàng Thoại) tuy không phải là một ca khúc cách mạng nhưng là một ca khúc dạt dào sức sống và thấm đậm chất lãng mạn tươi trẻ trong chuyện cổ dân gian. Thiên thai bay bổng, xa vời nhưng vẫn gắn với cuộc sống nơi trần thế.
Người Thăng Long Hà Nội rất tự hào về những bài hát vừa hùng tráng vừa trữ tình lừng danh của Văn Cao về thủ đô ngàn năm văn vật.
Quân đội Nhân dân Việt Nam bao nhiêu năm nay vẫn hành quân và chiến đấu giữa một trời âm vang oai phong và linh diệu trong nhiều ca khúc Văn Cao viết về lực lượng vũ trang.
Lời ca của Văn Cao vừa cao siêu, vừa trong sáng, vừa thơ mộng, vừa gần gũi với cuộc sống của nhân dân.
Lời ca của Văn Cao lấp lánh ánh sáng tư duy cao sâu của một nghệ sĩ bậc thày về sử dụng tiếng Việt hiện đại.
Lời ca mỗi bài hát của Văn Cao là một bài thơ mang nặng tính triết lý, xanh thắm màu xanh lãng mạn, bùng bùng lửa chiến đấu.
Văn Cao còn là một nhà thơ xuất sắc, một họa sĩ độc đáo, một nghệ sĩ suốt đời trung thành với Dân tộc và với Đảng.”
Tố Hữu dừng lại. Tôi thấy ông thật sự lặng đi một lát. Rồi nhà thơ nói tiếp với một thoáng nghẹn ngào:
“Nhớ quá Văn Cao những ngày ở Việt Bắc!”
Nhà thơ lại ho nhẹ:
“Quang Dũng là một trong những cánh chim đầu đàn của nền thơ cách mạng Việt Nam thế kỉ 20. Cũng như Thiếu tướng Nguyễn Sơn và Tư lệnh Khu 7 Huỳnh Văn Nghệ, Quang Dũng là một cán bộ chỉ huy cưỡi ngựa ra trận và làm thơ trên mình ngựa. Anh là cán bộ chỉ huy quân sự làm thơ nghiệp dư chứ không phải nhà thơ chuyên nghiệp phiên chế trong quân đội đi cùng các đơn vị để làm thơ ngợi ca người lính. Những nhà thơ như Quang Dũng không nhiều. Thơ Quang Dũng rất hay, rất sâu và nhiều yếu tố đổi mới ngay từ hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là thơ tình yêu, thơ chiến đấu, thơ triết lí, thơ tư tưởng. Đọc Đôi bờ, Mắt người Sơn Tây, Tây tiến, Sử một trung đoàn, Lính râu ria, Trắc ẩn, v.v., tôi kinh ngạc về tài năng và tâm hồn của Quang Dũng. Thơ Quang Dũng góp phần chứng minh hùng hồn cho tính chiến đấu và chủ nghĩa nhân văn của thơ kháng chiến chống Pháp nói riêng và của thơ Việt Nam nói chung. Nhiều khi, tôi tự hỏi: là một sĩ quan trực tiếp tác chiến, tại sao ngay trong những năm đầu vô cùng gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp, Quang Dũng lại có thể viết được những bài thơ tình yêu nồng nàn, đằm thắm, đầm ấm và nhiều chất Thăng Long Hà Nội đến thế. Tây tiến là một tượng đài hùng vĩ bằng thơ tràn ngập chủ nghĩa nhân văn vừa lãng mạnh vừa hiện thực về người bộ đội Thăng Long Hà Nội trên đường Tây tiến sang Lào làm nghĩa vụ quốc tế.
Cần đánh giá lại, đánh giá thật cao giá trị thơ Quang Dũng trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Quang Dũng là một trong những nhà thơ đàn anh trong văn học Việt Nam thế kỷ 20. Cũng cần nói thêm: Quang Dũng còn là một nhà văn sắc sảo về nội dung và điêu luyện về ngôn ngữ.
Hoàng Cầm ngời sáng cả trên cả lĩnh vực thơ lẫn kịch bản thơ. Chưa kể anh còn là một trong những nghệ sĩ ngâm thơ vào loại vô địch không kém gì Phùng Quán.
Bên kia sông Đuống là hình ảnh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Cả về nội dung lẫn nghệ thuật, bài thơ đều mới lạ nhưng vẫn gắn bó với truyền thống dân tộc. Bên kia sông Đuống là một trong những thành công rực rỡ trên tiến trình đổi mới thơ Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám. Bên kia sông Đuống đồng nghĩa với sự bất tử. Chỉ riêng Bên kia sông Đuống cũng đủ đưa Hoàng Cầm lên đài danh dự.
Tôi đã đọc Kiều Loan trong ba thời điểm khác nhau sau giải phóng Miền Nam. Cả ba lần, tôi đều chỉ có một ý nghĩ: sân khấu chúng ta từ sau giải phóng Miền Nam đến nay chưa dựng Kiều Loan là một thiếu sót lớn.
Cuối năm 1946, kịch thơ Kiều Loan sau khi được công diễn một buổi trên sân khấu Nhà Hát Lớn Hà Nội thì cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Từ đó đến nay, Kiều Loan vẫn bị chìm trong quên lãng!
Tôi cũng cần nói rõ: kịch thơ Hận Nam Quan (đã được dàn dựng ở Hà Nội và nhiều địa phương trước cách mạng Tháng Tám) và truyện thơ Men đá vàng (viết xong: 1973, xuất bản: 1994) đều lôi cuốn tôi vào dòng chảy cuồn cuộn sáng tạo của Hoàng Cầm.
Một tác giả ưu tú như vậy nhưng chưa được nghiên cứu và bình luận đúng mức thì rõ ràng đó là lỗi của giới nghiên cứu-lí luận-phê bình. Chúng ta biết: trong khoảng sáu mươi năm nay, Hoàng Cầm là tác giả mấy chục tác phẩm thuộc nhiều loại hình nghệ thuật.
Sau Quang Dũng và Hoàng Cầm, Trần Dần cũng là cây bút hạng nặng. Cũng như thơ Quang Dũng và Hoàng Cầm, thơ Trần Dần có nhiều đổi mới về nội dung và nghệ thuật, đồng thời là tấm gương phản chiếu tâm hồn dân tộc và phản chiếu cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Văn xuôi của anh, Người về lớp lớp, về căn bản, có giá trị hiện thực chiến đấu rất cao. Người người lớp lớp là một khẩu pháo binh chủng pháp của văn học Việt Nam thế kỉ 20. Nên sớm tái bản.
Ngoài ra, phải kể đến Hữu Loan, Lê Đạt và Phùng Quán, ba nhà thơ ba vẻ khác nhau nhưng cùng sâu sắc, nóng bỏng tình chiến đấu không kém phần lãng mạn.
Tất cả sáu anh đều góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng một nền văn học Việt Nam giàu tính hiện thực, tính phê phán, tính hiện đại và tính truyền thống. Tất cả sáu anh đều bền bỉ tiến bước dưới ngọn cờ cách mạng. Tất cả sáu anh đều là những nhà văn nghệ luôn luôn giữ vững phẩm vàng đạo đức của người cầm bút. Tất cả sáu anh đều xứng đáng được trao tặng những giải thưởng cao quý và những huân chương cao quý.
Một số nhà văn và nhà thơ tuy được giới phê bình và nghiên cứu đánh giá cao, song tôi vẫn thấy cần được đánh giá cao hơn hẳn.
Trường hợp Nguyễn Đình Thi chẳng hạn.
Thơ anh Thi sâu sắc về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều đổi mới về nhiều mặt ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Thơ anh Thi gợi nhớ thơ của các danh nho đất Việt: lời ít, ý nhiều và sâu sắc. Thơ tự do của anh Thi là sự tiếp nối và phát triển lối hát ả đào (tức thể ca trù) và thể hát nói(một bộ phận của ca trù), đó là những thể thơ tự do của các nhà nho nước ta và của nhân dân ta nửa đầu thế kỉ 20 và các thế kỉ trước. Thơ tự do của anh Thi cũng tiếp nối và phát triển tuyệt tác Tống biệt của Tản Đà.
Văn phong Nguyễn Đình Thi trong tiểu thuyết, thơ, kịch, nhạc, phê bình v.v. là văn phong trong sáng, style limpide, style pure.
Tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch anh Thi cũng có nhiều khác lạ về tư tưởng và nghệ thuật.
Nhạc anh Thi cũng vậy: rất ít nhưng độc đáo, trộn vào nhạc của bất cứ ai cũng không lẫn. Cũng như lời ca của Văn Cao, lời ca của Nguyễn Đình Thi vừa mơ mộng vừa hùng tráng và vừa trí tuệ.
Nhiều vở kịch Nguyễn Đình Thi, phải cỡ Thế Lữ, Nguyễn Đình Thi mới dựng nổi. Nguyễn Đình Thi đã sáng tạo ra một loại kịch nói triết lí mang nặng phong cách Nguyễn Đình Thi. Loại kịch nói triết lí này góp phần thúc đẩy sân khấu kịch nói Việt Nam nửa sau thế kỉ 20 phát triển một bước đi dài và vững chắc. Có một sợi dây liên hệ sinh động và tinh tế giữa chất triết lí trong kịch nói Nguyễn Đình Thi với chất triết lí trong tuồng vàchèo truyền thống của dân tộc. Có đấy! Có đấy! Cứ nghĩ kĩ mà xem: có đấy! Các nhà nghiên cứu cần tìm hiểu về mối liên hệ đó.
Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc, v.v. đã đạt tới tầm vóc của những tác phẩm cổ điển.
Nguyễn Đình Thi đi vào nhiều thể loại và ở thể loại nào, anh cũng thành công.
Từ Xung kích đến Vỡ bờ, Vào lửa, Mặt trận trên cao, Nguyễn Đình Thi đã góp phần đem lại một quan niệm mới về tiểu thuyết Việt Nam không giống với quan niệm của phương Tây thế kỉ 19 về tiểu thuyết. Chắc chắn Nguyễn Đình Thi hiểu thấu lí thuyết về điển hình hóa và cá tính hóa nhân vật. Nhưng nếu nhân vật trong tiểu thuyết và kịch của anh cứ cá tính hóa và điển hình hóa như các nhân vật thế kỉ 19 ở phương Tây thì còn gì là thế kỉ 20, còn gì là sáng tạo, còn gì là Việt Nam, còn gì là dân tộc! Một số người cứ lấy lí luận về điển hình hóa và cá tính hóa nhân vật cuối thế kỷ 19 ở phương Tây để soi đo cả hai tập Vỡ bờ. Trên cơ sở ấy, họ chê Vỡ bờ thiếu điển hình hóa, chê một số nhân vật trong Vỡ bờ kém cá tính hóa, v.v. Các cuốn tiểu thuyết khác của Nguyễn Đình Thi cũng bị soi đo theo kiểu ấy. Rõ ràng, chính những cây bút phê bình đó đã bị trôi giạt sang bến bờ chủ nghĩa máy móc và chủ nghĩa giáo điều.
Tư tưởng nhân văn Việt Nam, phẩm chất Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, cả ba yếu tố đó đều đậm đặc trong toàn bộ tác phẩm Nguyễn Đình Thi thuộc các thể loại thơ, kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn và ca khúc. Tất cả đều được diễn tả bằng một nghệ thuật in rõ dấu ấn riêng của Nguyễn Đình Thi.
Vị trí anh trong văn nghệ Việt Nam thế kỉ 20 cao hơn rất nhiều so với những đánh giá của các nhà phê bình-nghiên cứu Việt Nam từ trước cho tới nay. Nguyễn Đình Thi là một nhà văn nghệ lớn toàn năng có tầm vóc thế giới và thế kỉ. Tác phẩm của Nguyễn Đình Thi là niềm tự hào của văn học nghệ thuật Việt Nam thế kỉ 20, niềm tự hào của văn học nghệ thuật Thăng Long Hà Nội. Tác phẩm Nguyễn Đình Thi (nhạc, thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, v.v.) chứa đựng tính dân tộc đậm đà và góp phần phát triển mạnh mẽ tính dân tộc trong văn học nghệ thuật nước ta.
Nói đến Nguyễn Đình Thi, tôi muốn nhấn mạnh một điều: xin đừng đem lí luận về điển hình hóa và cá tính hóa nhân vật của phương Tây thế kỉ 19; xin đừng đem các nhân vật của Ban-dắc trong Tấn trò đời, của Gô-gôn trong Những linh hồn chết và của Lỗ Tấn trong AQ chính truyện để áp dụng máy móc vào việc phê bình tiểu thuyết của Nguyễn Đình Thi, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài và các nhà văn khác. Nhiều cây bút phê bình-nghiên cứu-lí luận quên rằng: trừ một vài nét phần nào tương đồng, xã hội Việt Nam từ xưa đến nay, văn học nghệ thuật Việt Nam từ xưa đến nay có nhiều đặc điểm lớn khác hẳn xã hội và văn học nghệ thuật phương Tây và Liên Xô, Trung Quốc.
Bây giờ, tôi nói về trường hợp nhà văn đàn anh Nguyễn Huy Tưởng.
Tôi cho rằng anh Tưởng cũng lớn hơn nhiều so với sự đánh giá trong các giáo trình đại học, các công trình nghiên cứu về văn học hiện đại nước ta mà tôi được đọc.
Một thí dụ: kịch bản Vũ Như Tô.
Phê phán kiến trúc sư thiên tài Vũ Như Tô khao khát xây dựng đài Cửu Trùng, sự phê phán đó thậm vô lí. Bất cứ một nghệ sĩ nào cũng có quyền khát vọng và cần phải khát vọng. Sao lại phê phán khát vọng xây đài Cửu Trùng của kiến trúc sư kiệt xuất như Vư Như Tô? Giả sử khát vọng của kiến Trúc Sư Vũ Như Tô thành hiện thực, nghĩa là đài Cửu Trùng được xây dựng thành công, thì các nhà phê bình đó lại xoay ngược ngòi bút: ca ngợi thiên tài của một kiến trúc sư Việt Nam đã để lại cho dân tộc một công trình tráng lệ và đồ sộ làm rạng rõ nền văn hóa dân tộc. Rõ ràng: những nhà phê bình ấy thế nào cũng nói được.
Đan Thiềm là một thành công nữa của Nguyễn Huy Tưởng trong Vũ Như Tô. Đan Thiềm làm cho ngọn lửa khát vọng có công trình lớn của kiến trúc sư Vũ Như tô được bốc cao hơn. Tại sao lại nhìn nhận Đan Thiềm là một hạn chế của Nguyễn Huy Tưởng? Tại sao lại phê phán Đan Thiềm? Phê phán Đan Thiềm cũng vô lí như phê phán khát vọng xây đài Cửu Trùng của Vũ Như Tô. Chính hai nhân vật này bổ sung cho nhau và cùng góp phân rất mạnh vào việc bật sáng tư tưởng chủ đề của kịch bản.
Vũ Như Tô là một kịch bản rực lửa chiến đấu như chính ngọn lửa của quần chúng thiêu đốt đài Cửu Trùng ở đoạn kết của vở kịch. Việc phá đốt đài Cửu Trùng của quần chúng là kết quả hợp lí của vở kịch, là biểu hiện cao của tính vươn lên, tính nhân dân, tính chiến đấu, tính phê phán hiện thực, tính phê phán bọn thống trị thối nát. Đó là sự phê phán và sự phủ định của nhân dân với bọn thống trị suy thoái đương thời. Tuy nhiên, vì không có người hướng dẫn, vì thiếu hiểu biết về nghệ thuật, đám đông nông dân trong kịch bản đã tiến công cả vào Đan Thiền lẫn Vũ Như Tô và đốt phá các công trình kiến trúc tráng lệ do Vũ Như Tô thiết kế và chỉ đạo xây dựng. Đó là một hạn chế của khối đông nông dân hành động tự phát và vô tổ chức, thiếu một sự lãnh đạo sáng suốt. Đó không phải là hạn chế của tác giả. Trái lại, một trong những thành công của tác giả chính là ở chỗ đã thể hiện được trung thực tính vô tổ chức của đám đông nông dân khi đám đông đó hành động tự phát.
Một số nhà phê bình vào loại là cờ đầu trên lĩnh vực phê bình-nghiên cứu hiểu sai vở kịch, hiểu sai Vũ Như Tô, hiểu sai Đan Thiềm và như thế nghĩa là hiểu sai Nguyễn Huy Tưởng! Vũ Như Tô là một trong những kịch bản có tầm cao trí tuệ của kịch nói Việt Nam thế kỉ 20.
Do đặc điểm của xã hội Việt Nam và những đặc điểm của văn học Việt Nam, không nên đem lí luận về chủ nghĩa hiện thực phê phán phương Tây thế kỉ 19 áp dụng máy móc vào việc phê bình dòng văn học mà ta gọi là hiện thực phê phán ở Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám.
Có những ý kiến một chiều phê bình bút kí Một chiều chủ nhật, tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô (tập 1) và kịch phim Lũy hoa làm cho nghệ sĩ lớn Nguyễn Huy Tưởng không ngậm cười được ở nơi chín suối. Một trong những thành công của Lũy hoa và Sống mãi với thủ đô (tập 1) là: bằng hình tượng nghệ thuật, tác giả đã xác nhận với lịch sử vai trò to lớn của những người tiểu tư sản trí thức và tiểu tư sản văn nghệ sĩ trong cuộc chiến đấu bảo vệ thủ đô Hà Nội hồi cuối 1946 đầu 1947.
Anh Tưởng là một trong những người có công đầu trong việc xây dựng nền tiểu thuyết và nền kịch bản kịch nói Việt Nam thế kỉ 20.
Không thể quên được Nguyễn Tuân. Đối với Nguyễn Tuân, tôi luôn luôn kính yêu từ trước đến sau. Tác giả Vang bóng một thời chắc chắn sẽ mọi thời vang bóng. Tôi cho rằng, Nguyễn Tuân không phải là con người ngang và ngông như một số nhà phê bình-nghiên cứu nhận xét. Trái lại, anh là một con người có cá tính mãnh liệt, rất giỏi đối nhân xử thế, một con người thấm đẫm phong cách thanh lịch Thăng Long Hà Nội, một người bạn chân thành và khiêm tốn, một nhà văn hiểu thấu văn hóa Thăng Long Hà Nội, văn hóa Việt Nam, văn hóa Trung Hoa và văn hóa Pháp, một nhà văn thấm đẫm tinh thần cách mạng cả trong khối óc lẫn trong trái tim, một nghệ sĩ đặc biệt tinh tế về thẩm thơ, thẩm văn, thẩm nhạc, thẩm họa và thẩm định nhân cách của người khác. Nguyễn Tuân là như thế!
Tôi cảm ơn và khâm phục Nguyên Hồng. Tấm gương dũng cảm, coi thường công danh, coi thường tiền bạc của anh càng ngày càng xứng đáng được treo trước mặt chúng ta để tất cả soi chung. Văn Nguyên Hồng là máu và nước mắt. Văn Nguyên Hồng là khí phách của một ngòi bút sắc bén và lành nghề.
Tôi nhớ mãi Hoài Thanh, nhà phê bình tài hoa và nhà đạo đức chân chính. Cái lớn của Hoài Thanh là ở chỗ: lặng lẽ và không bao giờ thanh minh. Cái đẹp của anh là ở chỗ: khi thấy mình đi quá mức cần thiết thì biết dừng ngay lại. Hoài Thanh rộng lượng nhưng không cả nể. Hoài Thanh hiểu đời nhưng không bao giờ lên tiếng dạy đời. Hoài Thanh có công lớn trong việc xây dựng và phát triển nền phê bình văn học Việt Nam thế kỉ 20.Hành văn trong các bài phê bình của Hoài Thanh xứng đáng được coi như một tấm gương sáng treo cao trước giới lí luận-nghiên cứu-phê bình.
Xin dâng một nén hương trước hồn thơm Hoài Thanh Nguyễn Đức Nguyên.”
Sau nhiều tiếng ho nhưng gương mặt vẫn không biến sắc, Tố Hữu nói tiếp:
“Tôi thật sự yêu mến tài năng và tâm hồn Siêu Hải, nhà văn vừa của quân đội vừa của Hà Nội Thăng Long. Bút pháp Siêu Hải vững vàng ngay trong tác phẩm đầu tay Voi đi cách đây nửa thế kỷ với sự giúp đỡ của Nguyễn Huy Tưởng. Bút pháp Siêu Hải càng vững vàng hơn và nhiều màu nhiều vẻ hơn trong hai cuốn tiểu thuyết khác nhau về sông Lô sau này. Gần đây, tôi càng hiểu Siêu Hải và càng hiểu Hà Nội qua Bóng chiều Thăng Long và Nắng dọi kinh thành. Với hai cuốn tiểu thuyết xuất sắc đó, Siêu Hải đã góp phần làm sống lại một Thăng Long huy hoàng trong quá khứ. Xin cảm ơn Đại tá pháo binh-nhà văn Siêu Hải.
Hãy giữ lấy vẻ đẹp thiêng liêng của Thăng Long Hà Nội, hãy giữ lấy truyền thống sáng tạo nhiều mặt, truyền thống văn hiến, truyền thống thanh nhã, truyền thống giỏi làm ăn buôn bán, truyền thống văn chương, truyền thống hào hoa, truyền thống yêu nước, truyền thống dân chủ, v.v. của người Thăng Long Hà Nội! Đó chính là tiếng nói vang lên từ một số tiểu thuyết của Siêu Hải về Hà Nội Thăng Long.
Cần chính thức tẩy oan cho tiểu thuyết Vào đời và tác giả Hà Minh Tuân. Hà Minh Tuân là cán bộ Đoàn thanh niên Cứu quốc Hà Nội từ năm 1943, một cán bộ lãnh đạo Đoàn Thanh niên Xung phong thành Hoàng Diệu (Hà Nội) năm 1945. Thời chống Pháp, anh là Chính ủy Trung đoàn và đã từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Hà Minh Tuân là một nhà văn cách mạng có tài, một cây bút trung thực, thông minh và đầy dũng khí. Việc tập trung phê phán Vào đời là biểu hiện của lối phê bình chụp mũ, võ đoán và non nớt. Một trong những thiên chức của văn học là phê phán hiện thực. Vào đời bước đầu làm tốt thiên chức đó. Nhưng một số cây bút phê bình chỉ một mực đòi hỏi văn học làm nhiệm vụ ca tụng. Vì vậy, những cây bút ấy quy kết Vào đời là tác phẩm xấu trong khi Vào đời là tác phẩm góp phần mở đường cho việc phê phán cái xấu trong xã hội chúng ta và góp phần quạt to ngọn lửa chiến đấu của văn học.
Hà Minh Tuân, cựu chiến binh Điện Biên Phủ, cá nhân tôi cùng vô số cựu chiến binh và văn nghệ sĩ cách mạng nguyện noi gương anh tiến công vào cái xấu!”
[1]Tên một bài thơ Tố Hữu trong tập Việt Bắc (Xuất bản lần đầu: 1954)
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php/showFile.php?res=3220&rb=0102
15.11.2004
Nhật Hoa Khanh
(Những tâm sự của nhà thơ Tố Hữu) 5 kỳ
Về cụ Phan Khôi, phải đánh giá lại. Không thể quên được hình ảnh gương mẫu và nồng nhiệt của cụ trong đội quân văn nghệ kháng chiến chống Pháp. Không thể bỏ qua được những kết quả của cụ trong việc đổi mới thơ Việt Nam trước khi xuất hiện phong trào Thơ Mới. Phan Khôi còn là một học giả về văn học Trung Quốc. Muốn hay không, cụ cũng đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học nước ta thế kỷ 20.
Nhà văn Phùng Cung cũng cần được minh oan cùng với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh. Cần lắm. Con ngựa già của chúa Trịnh chỉ là con ngựa già của chúa Trịnh mà thôi, không có ẩn ý gì xấu như bốn mươi năm trước đây một số người lầm tưởng.
Ngay từ nhưng năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Phùng Cung đã được đồng nghiệp nhìn nhận như một cán bộ văn nghệ đầy nhựa sống, giàu đức tin và rất chân thành. Với những ưu điểm nổi bật ấy, suốt cuộc đời mình, anh đã đi cùng dân tộc, đi cùng cách mạng.
Hãy dành thời gian và công sức nghiên cứu thơ và kịch nói Đoàn Phú Tứ. Tác phẩm của anh Tứ là tiếng vang của trí tuệ trí thức Thăng Long Hà Nội trước cách mạng Tháng Tám.
Thêm một nhân vật tôi muốn nói: học giả Trương Tửu. Trương Tửu có năng lực đặc biệt về phê bình và lí luận văn học. Không thể tùy tiện quy kết anh là cơ hội, là tờ-rốt-kít. Đến bây giờ chúng ta đều rõ: anh sống thẳng thắn, sống lương thiện và hết lòng với các công trình nghiên cứu của mình. Cần khẳng định những đóng góp độc đáo của anh đối với phê bình và lí luận văn học.
Phải nêu thêm không ít trường hợp nữa.
Xuân thu nhã tập, tập thơ cao nhã viết vào hai mùa xuân thu. Hầu hết các tác giả Xuân thu nhã tập đều là những người có tài có đức và đều vững vàng sáng tạo trong lửa đạn hai cuộc chiến tranh cứu nước. Xuân thu nhã tập là một tác phẩm trong sáng về tư tưởng, một tác phẩm viết bằng những vần thơ sâu sắc và mới lạ, một tác phẩm phản ánh khát vọng giữ gìn cái hồn dân tộc vào thời kì tiền khởi nghĩa, vào những ngày tháng sắp sửa bùng nổ cách mạng Tháng Tám. Khó hiểu không phải là khuyết điểm của tập thơ. Khó hiểu không đồng nghĩa với bí hiểm. Khó hiểu đồng nghĩa với tắc tị. Phê bình Xuân thu nhã tập khó hiểu, bí hiểm, tắc tị, yếu đuối, đó là sự phê bình sai lầm, thiếu một cái nhìn lịch sử và thận trọng. Chính đồng chí Trường Chinh có lần nói với tôi: Xuân thu nhã tập chủ yếu hướng về cội nguồn dân tộc, không lai căng, tắc tị, hấp hối, chuẩn bị vào nhà xác như một vài người nào đó đã nhận xét.
Phổ thơ Lê Minh, Trường chinh ca của Lương Ngọc Trác là một khúc quân hành hợp xướng, phong phú và nhiều sáng tạo, xứng đáng được tạc vào bia đá đặt trong Bảo tàng Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ở đây, thơ và nhạc thống nhất với nhau, nhạc đẩy thơ lên, thơ nâng cao nhạc. Lời thơTrường chinh ca phảng phất màu sắc thơ cổ điển nhưng vẫn lấp lánh ánh sáng thơ hiện đại.
Trường chinh ca thơ và nhạc hoàn toàn không có chút gì là anh hùng cá nhân, là hiệp sĩ, là tiêu cực tiểu tư sản như một số người phê phán. Trái lại, thơ và nhạc Trường chinh ca nói chung thấm sâu chủ nghĩa anh hùng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam và nói riêng, bừng sáng phong thái hào hoa của người chiến sĩ thanh niên tiểu tư sản trí thức Thăng Long Hà Nội, Trường chinh ca dựng lên thành công những nét cơ bản của hình tượng người chiến sĩ cứu nước trẻ tuổi vừa có ý thức sâu sắc về tình đồng chí vừa có ý thức sâu sắc về sự quên mình, coi thường gian khổ, chiến thắng cái chết trên đường trường chinh đầy lửa máu. Lời thơ đẹp, giản dị hòa lẫn với chất trí tuệ. Nhạc điệu tinh tế, khi tha thiết, lúc dồn dập, khi hùng tráng, lúc đau thương. Trường chinh ca là một trong những chiến công hàng đầu và rất sớm của thơ và ca khúc kháng chiến chống Pháp, một trong những chiến công nổi bật của thơ và ca khúc Việt Nam nói chung từ cách mạng Tháng Tám đến nay.
Phải sống ở Thăng Long Hà Nội trước cách mạng Tháng Tám, phải hiểu sâu sắc Thăng Long Hà Nội trước cách mạng Tháng Tám, phải yêu nồng nàn Hà Nội Thăng Long trước cách mạng Tháng Tám, phải say mê cuộc sống trường chinh gian khổ của người chiến sĩ vệ quốc thì mới có thể viết được những câu thơ trong Trường Chinh ca đặc sắc như thế và mới có thể phổ nhạc vào Trường chinh ca đặc sắc đến thế!
Bài thơ Ngày về của Chính Hữu và bản nhạc cùng tên của Lương Ngọc Trác phổ bài Ngày về là hai tác phẩm vừa trữ tình vừa lãng mạn cách mạng, phản ánh khí thế tiến công và niềm tin tưởng vững chắc ở ngày về giải phóng thủ đô của Trung đoàn Thủ Đô thông qua những lời thơ và điệu nhạc vừa tinh tế vừa trí tuệ. Ấy thế mà cả thơ lẫn nhạc Ngày về đều bị phê phán là anh hùng cá nhân, là tiểu tư sản. Suy nghĩ cho kỹ suốt bao nhiêu năm nay, tôi chẳng thấy ở bài thơ và bản nhạc ấy một bóng dáng lờ mờ nào của chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Các cán bộ chỉ huy và chiến sĩ tiểu tư sản phiên chế trong Trung đoàn thủ đô, kể cả anh Chính Hữu và anh Lương Ngọc Trác, đều vững vàng, lạc quan, hào hoa, thông minh và gan góc. Những vần thơ đặc sắc ca ngợi cuộc chiến đấu anh dũng và sáng tạo tuyệt vời suốt gần hai tháng để bảo vệ thủ đô của những con người như vậy dưới sự lãnh đạo của Đảng tại sao lại bị phê phán là anh hùng cá nhân, là tiểu tư sản?
Tiểu tư sản, dưới ngòi bút của một số nhà phê bình, thường đi đôi với lập trường bấp bênh. Tiểu tư sản, theo quan niệm của một số nhà phê bình, là những người hay dao động, hoang mang và sợ gian khổ. Sao lại thành kiến nặng nề như vậy? Tiểu tư sản hay tư sản hay nhà nho hay quan lại yêu nước thì cũng đáng quý như công nhân và nông dân yêu nước. Trên thực tế, hàng chục vạn thanh niên, học sinh, sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ và cán bộ lãnh đạo các ngành, các giới xuất thân tiểu tư sản rất vững vàng và sáng suốt trong cách mạng giải phóng dân tộc như chúng ta đã biết. Cứ thấy văn nghệ sĩ xuất thân từ tiểu tư sản là chụp ngay xuống đầu họ hàng tá mũ anh hùng cá nhân, dao động. Phê bình kiểu ấy là thành kiến, là ấu trĩ tả khuynh, thui chột tài năng, giết chết sáng tạo của nghệ sĩ! Phê bình kiểu đó là trái ngược với truyền thống nhân văn chiến đấu của dân tộc Việt Nam!
Một trong những điểm sáng lung linh của Ngày về thơ là ở chỗ tác giả đã diễn tả được phong thái hào hoa và oai hùng của người chiến sĩ thanh niên Thăng Long Hà Nội. Hơn nữa, lại diễn tả bằng ngôn ngữ hàm súc cổ điển kết hợp với ngôn ngữ hiện đại, tạo ra được sự tiếp nối giữa thơ hiện đại với thơ cổ điển. Sự tiếp nối này, cho đến nay, rất ít bài thơ và rất ít nhà thơ thực hiện được. Ta hãy nghe: Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm/ Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa. Đúng là hình ảnh vừa oai hùng vừa chân thực vừa lãng mạn vừa sinh động của người chiến sĩ thanh niênThăng Long Hà Nội trong những ngày bảo vệ thủ đô cuối 1946 đầu 1947 và mấy năm đầu cuộc chống Pháp tột đỉnh gian khổ, thiếu cả súng trường, đói cơm rách áo nhưng hết sức sáng tạo, vô cùng anh dũng và tràn ngập niềm tin thắng lợi.
Hình ảnh ấy tất yếu phải khác hẳn hình ảnh anh vệ quốc nông dân miền Bắc “tì tay lên mũi súng” trong “Cá nước” của tôi. Hình ảnh ấy cũng tất yếu phải khác hẳn hình ảnh anh vệ quốc nông dân Nam Trung Bộ “Áo vải chân không/ Đi lùng giặc đánh” trong Nhớ của Hồng Nguyên. Nếu anh vệ quốc trong Ngày về mà giống anh vệ quốc trong Nhớ hoặc giống anh vệ quốc trong Cá nước, thì Ngày về mất tính chân thực lịch sử và sẽ trở thành một bài thơ tầm thường và giả tạo. Chiến sĩ vệ quốc thủ đô Thăng Long Hà Nội hồi ấy bao giờ cũng phải cẩn thận, đội mũ, đi giày và ăn vận quần áo rất sạch sẽ và chỉnh tề để đánh Pháp. Đúng là “áo hào hoa”! Hoàn toàn đúng là “áo hào hoa”. Họ dùng tiền bạc của chính mình hoặc của gia đình để tự trang bị vũ khí và quân phục. Chất hào hoa Thăng Long Hà Nội là thế! Sao lại phê phán? Họ đáng giặc hết sức gan dạ, hết sức sáng tạo, vừa đánh vừa hát vang bài ca của Hoàng Quý, Văn Cao và một số nhạc sĩ khác. Chất hào hoa Hà Nội Thăng Long là thế! Sao lại phê phán? Bằng vũ khí thô sơ, suốt gần hai tháng trong một mùa đông giá buốt, họ chiến thắng giặc Pháp có đủ binh hùng tướng mạnh và vũ khí tối tân trên không, dưới đất, trên sông, dưới biển! Họ mở ra một trong những trang đầu tiên cực kì oanh liệt của Quân đội Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Họ làm sống lại hình ảnh oai hùng của các đội quân chủ lực của Trần Hưng Đạo bảo vệ Thăng Long sáu thế kỉ trước. Hãy đọc to lên mấy lần: Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm/ Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa. Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm/ Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa. Hay quá! Sáng tạo quá! Lãng mạn cách mạng quá! Chân thực quá! Hùng tráng quá! Trí tuệ quá! Phải sống ở Thăng Long Hà Nội trước cách mạng Tháng Tám và nhất là phải hiểu Thăng Long Hà Nội trước cách mạng Tháng Tám mới có thể viết được những vần thơ sâu sắc và tinh tế đến vậy.
Một trong những thành công quan trọng của Ngày về thơ chính là ở đó. Nhưng đau đớn thay, nhưng tiếc thay, chính điểm thành công quan trọng này lại là cái đích phê phán hoàn toàn vô lí và hoàn toàn định kiến của một số cây bút phê bình sai lệch về truyền thống hào hoa, bất khuất của thủ đô Hà Nội!
Cám ơn ba nghệ sĩ Lê Minh, Lương Ngọc Trác, Chính Hữu đã để lại cho đời những bài thơ và những bản nhạc thơm ngát chất Thăng Long Hà Nội!
Các anh Thế Lữ, Phạm Văn Khoa, Nguyễn Hồng Nghi, Xuân Thủy, v.v. đều nói với tôi: nếu không có các tác phẩm thơ nhạc như Ngày về, Trường chinh ca, Người Hà Nội, Tây tiến, Tiến về Hà Nội, v.v. và các bức tranh về người và cảnh Thăng Long Hà Nội của Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái, v.v.cùng các tác phẩm văn xuôi về Thăng Long Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, v.v. thì việc dàn dựng các tác phẩm sân khấu, các tác phẩm điện ảnh, v.v. nói về Hà Nội từ đầu 1947 trở về trước bị sai lệch rất nhiều bởi vì càng ngày càng ít người biết về Hà Nội từ toàn quốc kháng chiến cuối 1946 đầu 1947 trở về trước. Ngoài một số điểm tương tự nào đó, nhìn chung Thăng Long Hà Nội hồi ấy, thuở ấy khác rất xa với Hà Nội ngày nay.
Cần nhanh chóng khôi phục vị trí danh dự cho bài thơ xuất sắc và bản nhạc xuất sắc Ngày về. Bài thơ và bản nhạc Ngày về, đó là niềm tự hào của thơ và ca khúc Việt Nam thế kỉ 20, một trong những niềm tự hào của thơ và ca khúc thủ đô, niềm tự hào của Trung đoàn Thủ Đô vừa anh hùng vừa hào hoa vừa trí tuệ. Bài thơ và bản nhạc Ngày về, đó là hai trong những thành quả rất sớm của thơ và ca khúc kháng chiến chống Pháp, xứng đáng có mặt trong các tuyển tập thơ và ca khúc Việt Nam nhiều thế kỷ sau.
Rất tiếc cho đến nay, vẫn chưa có một tuyển tập ca khúc Hoàng Quý. Trước, trong và ngay sau cách mạng Tháng Tám, mấy chục bài hát trữ tình và chiến đấu đầy sức lôi cuốn của Hoàng Quý vang lên khắp đất nước trong học sinh, sinh viên và cả lực lượng vũ trang. Nhạc và lời trong ca khúc Hoàng Quý bao giờ cũng truyền cảm, dễ hiểu, sâu sắc, gợi nhớ lịch sử, gắn với hiện tại, hướng tới tương lai, vẫy gọi tình yêu, thôi thúc lên đường. Hoàng Quý là một trong những nhạc sĩ yêu nước và cách mạng tài năng nhất giai đoạn 1940–1946. Tất cả các bài hát của Hoàng Quý trong đó có Chùa Hương, Cô láng giềng, v.v. chan chứa tình yêu quê hương đất nước và tình yêu lứa đôi. Cảm tử quân (1944) của anh là một trong những khúc quân hành đầu tiên của quân đội cách mạng, một trong những khúc quân hành tiêu biểu về nội dung lẫn nghệ thuật của âm nhạc cách mạng Việt Nam thế kỷ 20. Cảm tử quân được hát vang ngay tại mặt trận thủ đô Hà Nội và ở các mặt trân Nha Trang, Buôn Mê Thuột, Sài Gòn, v.v. những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Tôi không thể quên hình ảnh hào hùng của hàng ngàn thanh niên và học sinh Hà Nội tình nguyện nhập ngũ suốt ngày đêm cùng cất cao tiếng hát vang trời các hành khúc Cảm tử quân, Chiến sĩ Việt Nam (Văn Cao) và Đoàn vệ quốc quân (Phan Huỳnh Điểu), v.v. trên các toa xe lửa đi qua Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Huế để vào Nam cứu nước trong phong trào Nam tiếncuối năm 1946.
Các bài hát chiến đấu và các bài hát trữ tình của Hoàng Quỹ, Văn Cao và Phan Huỳnh Điểu, Lương Ngọc Trác, v.v. cần được đưa vào phong trào thanh niên, học sinh, sinh viên trong giai đoạn Đổi Mới hiện nay vì chúng vẫn tươi mới cả về nội dung lẫn nghệ thuật và vẫn còn nguyên vẹn ánh lửa thời sự.
Cuối cùng, là trường hợp của chính tôi. Đánh giá thơ tôi như thế nào, điều đó thuộc quyền của các nhà lí luận–phê bình–nghiên cứu. Nhưng ca ngợi thơ tôi là lá cờ đầu của thơ cách mạng thì thật hoàn toàn vô lí. Nếu thơ Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ cách mạng thì thơ Bác Hồ, thơ Phan Đình Phùng, Nguyễn Đình Chiểu, Đặng Thai Thân, Đặng Nguyên Cẩn, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, v.v. là những lá cờ thứ hai, thứ ba, thứ tư hay sao? Đáng tiếc, sự đánh giá đó lại là của những cây bút được xếp vào loại lá cờ đầu của giới nghiên cứu–lí luận– phê bình văn học! Đừng vì quá quý mến tôi mà phóng tôi lên mặt trăng và hạ thấp những nhà thơ cách mạng lớn khác!
Nhân đây, tôi xin nói một chút về bài thơ Giữa thành phố trụi.
Tôi không tán thành ý kiến phê bình Giữa thành phố trụi của tôi là một bài thơ tiểu tư sản, thiếu tính công nông, thiếu tính vô sản. Tôi yêu thíchGiữa thành phố trụi bởi vì bài thơ được viết bằng thể tự do, viết bằng những lời thơ phóng khoáng; bởi vì nó diễn tả được khung cảnh hoang tàn của Huế hồi đầu kháng chiến chống Pháp, diễn tả được khí phách kiên cường của các chiến sĩ Huế quyết tâm phá tan cuộc tiến công mùa đông của Pháp ở Huế.
Với tất cả tinh thần khiêm tốn cần có của người sáng tác, tôi vẫn có thể nói rằng: tác giả những lời phê bình trên không hiểu về tinh thần quyết tử của nhân dân và chiến sĩ Huế trong cuộc chiến đấu hoàn toàn không ngang sức với thực dân Pháp hồi cuối 1946 đầu 1947. Mặt khác, tác giả những lời phê bình trên còn áp đặt những thành kiến vô lí trên tầng lớp tiểu tư sản trí thức tham gia kháng chiến chống Pháp. Thêm vào đó, cây bút phê bình trên cũng không tiếp nhận được thể thơ tự do mà tôi đã sử dụng để viết Giữa thành phố trụi.
Xin kính gửi lời biết ơn của tôi lên anh linh bậc đàn anh tài đức kiêm toàn Nguyễn Xuân Khoát về việc anh đã phổ nhạc thành công Ta đi tới.
Xin gửi lời biết ơn của tôi lên anh linh nhạc sĩ Đỗ Nhuận về việc anh đã lấy cảm hứng từ Tâm tư trong tù của tôi để sáng tác Chiều tù, lấy cảm hứng từ Tiếng sáo Ly Quê và Mã Chiếm Sơn của tôi để sáng tác Hận Sơn La bất tử.
Tôi vô cùng biết ơn tác giả xuất sắc Xi-mô-nốp và sau đó, biết ơn người dịch ra tiếng Pháp tuyệt tác Đợi anh về. Nếu không có bản tiếng Pháp, tôi không thể nào dịch được Đợi anh về sang tiếng Việt bởi vì tôi không biết tiếng Nga.
Tôi cũng xin gửi lời biết ơn của mình lên anh linh nhạc sĩ Văn Chung, người phổ nhạc Đợi anh về bản tiếng Việt.
Bản nhạc Đợi anh về vừa đậm đà tính dân tộc Việt Nam vừa phản ánh trọn vẹn tình yêu tha thiết, nồng nàn, lạc quan, vượt lên trên cái chết và phản ánh trọn vẹn niềm tin bất diệt ở ngày toàn thắng trở về của người lính mà Xi-mô-nốp đã diển tả.
Về mặt phổ nhạc vào thơ dịch, sau Nguyễn Xuân Khoát là người đầu tiên (phổ một đoạn Chinh phụ ngâm) thì Văn Chung là người thứ hai.
Mùa hè 1963, tôi được mời xuống Hải Phòng nói chuyện tại Hội nghị chuyên đề giảng dạy văn học toàn miền Bắc ở trường cấp 3 Ngô Quyền. Giờ giải lao, một thày giáo miền xuôi lên dạy học ở Khu tự trị Tây Bắc tên Phạm Xuân Chự gặp tôi. Mắt đỏ hoe, anh Chự nói: Đợi anh về (nhạc Văn Chung) đã thổi ngọn lửa tình yêu con người, tình yêu lứa đôi, tình yêu quê hương trong trái tim anh cháy to hơn nữa.
Tôi cảm ơn nhạc sĩ Tô Vũ về việc anh đã phổ nhạc Ta đi tới (sau anh Nguyễn Xuân Khoát). Tôi cũng cảm ơn Tô Vũ vì anh là người thứ hai sáng tác một ca khúc dựa trên ý thơ bản dịch tiếng Việt Đợi anh về (sau nhạc sĩ Văn Chung).
Anh Lương Ngọc Trác thời chống Pháp phổ nhạc Em bé Triều Tiên (tập Việt Bắc) với những âm điệu sâu lắng và u uất; thời chống Mỹ, phổ nhạcChiếc áo xanh (tập Ra trận) với những âm điệu đằm thắm. Xin cảm ơn người nhạc sĩ vừa cao tài vừa có tâm hồn thơ muôn điệu đó.
Tôi đặc biệt cảm ơn nghệ sĩ Hoàng Cầm về những lời phê bình sắc sảo, chính xác và chân thành của anh bốn mươi năm trước đây đối với thơ tôi.
Tôi cảm ơn giáo sư–nghệ sĩ Hoàng Như Mai về việc anh đánh giá đúng trường ca Nước non ngàn dặm của tôi trong bài giới thiệu của anh về trường ca này trên Đài Tiếng Nói Việt Nam năm 1973.
Tôi khâm phục tài năng và ý chí của nghệ sĩ Đặng Đình Hưng. Đối với tôi, cuộc đời anh Hưng là một bài giảng cao cấp về niềm tin ở sự thật.
Tôi thành tâm nhớ ơn họa sĩ lớn Dương Bích Liên. Anh Liên đã cho tôi một bài học về tinh thần trách nhiệm của người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật. Ở chiến khu Việt Bắc, khi được trao trách nhiệm vẽ Bác Hồ, Dương Bích Liên gần như bỏ ăn bỏ ngủ suy nghĩ về nhân vật Hồ Chí Minh. Cuối cùng, anh đã để lại cho đời những bức danh họa về nhà yêu nước–nhà chiến lược – nhà văn hóa–nhà nhân văn chủ nghĩa Hồ Chí Minh. Tôi nhớ mãi lời Dương Bích Liên nói với tôi: Lành ạ, đã bao lần mình lặng ngắm Bác Hồ cô đơn trong cảnh rừng Việt Bắc lúc chiều tà. Chẳng hạn, có lần lặng ngắm Hồ Chí Minh cô đơn quét lá trong rừng nơi Bác ở. Chính hình ảnh ấy góp phần giúp mình nhận rõ: vẽ Hồ Chí Minh, trước hết là vẽ một Con Người bình thường và từ Con Người bình thường ấy toát lên ánh sáng lung linh của chủ nghĩa nhân văn chiến đấu Việt Nam. Mình không thần thánh hóa Bác Hồ nhưng chính vì thế, mình mới diễn tả được phần nào tầm vóc thần thánh của Bác.
Tôi khâm phục tinh thần trách nhiệm cao ấy của Dương Bích Liên, người họa sĩ vừa khiêm tốn vừa tràn đầy cá tính và vừa dồi dào năng lực sáng tạo.
Ngay trong lúc làm công tác văn nghệ tại mặt trận Điện Biên Phủ, Hoàng Vân đã viết xong Hò kéo pháo. Hò kéo pháo lập tức trở nên một trong những bệ phóng tư tưởng tiến công và quyết thắng của toàn thể chiến sĩ Điện Biên Phủ, toàn thể thanh niên xung phong và dân công Điện Biên Phủ.
Ngay sau khi cuộc chiến tranh leo thang bùng nổ trên Miền Bắc, Hoàng Vân đã hoàn thành ca khúc Quảng Bình quê ta ơi. Quảng Bình quê ta ơilập tức trở nên một trong những quả trên lửa của binh chủng âm nhạc bắn lên những máy bay chiến đấu của giặc Mỹ. Quảng Bình quê ta ơi không chỉ là của Quảng Bình. Nó lập tức trở nên đồng nghĩa với Việt Nam quê ta ơi. Hàng triệu thanh niên tiền tuyến và hậu phương đã say mê đi vào cuộc chống Mỹ trên nhiều lĩnh vực trong lời ca và điệu nhạc của Quảng Bình quê ta ơi cao vút tinh thần lãng mạn cách mạng.
Vào những ngày Mậu Thân 1968 sôi động, âm thanh của Hoàng Vân lại cuộn sóng với Chào anh giải phóng quân – chào mùa xuân đại thắng.
Hò kéo pháo, Quảng Bình quê ta ơi và Chào anh giải phóng quân – chào mùa xuân đại thắng gợi nhớ đến sức mạnh nghệ thuật của Chiến sĩ Việt Nam, Không quân Việt Nam và Hải quân Việt Nam của Văn Cao.
Vào thời điểm vô cùng khó khăn về nhiều mặt của đất nước, năm 1984, Hoàng Vân đã hoàn thành một nhạc phẩm lớn về Toàn Thắng Điện Biên Phủ. Rất tiếc không hiểu vì sao nhạc phẩm đó cho đến nay vẫn chưa được công diễn.
Xin gửi đến Hoàng Vân sự kính trọng của cá nhân tôi và của tất cả những ai đã từng chiến đấu và phục vụ chiến đấu tại Điện Biên Phủ, tất cả những ai tự hào về Toàn Thắng Điện Biên Phủ, tất cả những ai đã từng tham gia hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.
Hoàng Vân, anh xứng đáng là một nghệ sĩ chân chính, một nghệ sĩ đầy lòng quả cảm, một nghệ sĩ lãng mạn cách mạng trong lửa đạn chiến tranh.
Tôi cũng muốn nói về học giả Phan Ngọc. Nhờ anh, tôi đã có những giờ phút phiêu diêu với Tư Mã Thiên và với lịch sử Trung Quốc cổ đại. Ngôn ngữ trong nhiều bản dịch tiếng Việt của Phan Ngọc nói chung vừa gọn gàng, vừa chính xác. Đó là chưa kể những nét đặc sắc trong các bài viết của anh về văn học.
Trên lĩnh vực nghiên cứu âm nhạc dân tộc, đứng ngay sau bậc thày và người anh cả Nguyễn Xuân Khoát, là nhạc sĩ Tô Vũ (tức Hoàng Phú, em ruột nhạc sĩ Hoàng Quý). Ở Tô Vũ, có một sự tổng hòa giữa con người nghệ sĩ đa cảm và con người nghiên cứu thâm thúy. Các bài nghiên cứu của Tô Vũ chứa đựng nhiều nhận xét vừa mới lạ vừa sâu sắc và một ý thức dân tộc mạnh mẽ. Tô Vũ không chịu ảnh hưởng thụ động của các nguyên tắc lí luận–phê bình–nghiên cứu của phương Tây. Anh vận dụng thận trọng và sáng tạo các nguyên tắc lí luận–phê bình–nghiên cứu của phương Tây để khẳng định hàng loạt giá trị cao quý và độc đáo của âm nhạc dân tộc. Tô Vũ đã góp phần to lớn vào việc đổi mới và nâng cao nhận thức của nhiều người Việt Nam và nhiều người nước ngoài về âm nhạc Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám và các thế kỉ trước. Tô Vũ đã đạt tới tầm vóc một nhà phê bình sáng suốt, un critique éclairé.
Ngay từ trước cách mạng Tháng Tám, Tô Vũ đã được giới học sinh, sinh viên và hướng đạo sinh quý mến với ca khúc yêu nước Ngày xưa (do anh viết cả nhạc lẫn lời). Ngày xưa làm sống lại không khí oai hùng của dân tộc ta thời Hai Bà Trưng, thời Trần Hưng Đạo. Ngày xưa góp phần giục giã lớp thanh niên trước cách mạng Tháng Tám lao vào bão táp của cuộc đấu tranh cứu nước.
Những ca khúc lãng mạn vang dội ở những mức độ khác nhau của anh hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp như Tạ từ, Em đến thăm anh một chiều mưa, Tiếng chuông chiều thu, v.v. đều ánh lên tình yêu con người, tình yêu hòa bình, tình yêu lứa đôi chân chính. Những tình ca hoặc ca khúc trữ tình ấy của Tô Vũ chứa đựng một tư duy mới lạ và có màu sắc triết lí. Giờ đây, chúng ta nên có một cái nhìn rộng rãi về các bản tình ca hoặc ca khúc trữ tình đó bởi vì chúng góp phần làm phong phú chủ nghĩa nhân văn của nền âm nhạc kháng chiến chống Pháp và của nền âm nhạc cách mạng nói chung ở nước ta.
Tô Vũ còn đáng yêu trong ca khúc Cấy chiêm (lời: Quách Đàm) duyên dáng và đằm thắm chất chèo miền Bắc. Những nhạc sĩ vừa có biệt tài sáng tác vừa có năng lực nghiên cứu cao như Tô Vũ ngày càng hiếm. Tiếc rằng lâu nay, đôi cánh sáng tác giàu chất thơ và đậm chất trí tuệ của Tô Vũ không tung bay lên nữa, không rõ vì lí do gì! Tôi cũng phải nói thêm: tiếng Việt trong ca khúc Tô Vũ là một thứ tiếng Việt trong sáng, giản dị, giàu chất thơ và giàu hình ảnh.
Nụ cười sơn cước (Tô Hải), Tình quê hương (Việt Lang), Dư âm (Nguyễn Văn Tý), Tiếng hát quay tơ (Tử Phác), Sóng nước ngọc tuyền (Huy Du), v.v. đều là những bản tình ca hoặc ca khúc trữ tình lành mạnh đầu tiên của âm nhạc kháng chiến chống Pháp. Những ca khúc ấy chứng tỏ con người Việt Nam trong lửa đạn ngút trời của cuộc chiến tranh giữ nước vẫn thanh thản yêu đương, vẫn khát khao hạnh phúc lứa đôi, vẫn mơ ước cuộc sống hòa bình. Đó chính là một trong những mặt tích cực và độc đáo của con người Việt Nam kháng chiến từ hàng ngàn năm trước. Sao lại phê phán? Nợ nước thù chồng. Câu ấy có nghĩa là càng yêu chồng càng yêu nước, càng yêu nước càng yêu chồng. Bà Trưng Trắc là một tấm gương chói lọi. Sao lại phê phán người nghệ sĩ khi người nghệ sĩ nói đến tình yêu trong chiến tranh giải phóng? Cần có một cái nhìn đổi mới về những ca khúc tình yêu nói trên. Tình yêu lứa đôi chính là một trong những sức mạnh chiến thắng của người lính nói riêng và của thanh niên nói chung trong máu lửa cứu nước từ thời Bà Trưng, Bà Triệu.
Riêng Sơn nữ ca (Trần Hoàn) cần được đánh giá cao. Sơn nữ ca: một trong những tình ca lãng mạn cách mạng đầu tiên của ca khúc cách mạng và một trong những tình ca hay nhất của ca khúc Việt Nam cả nhạc lẫn lời thế kỷ 20. Sơn nữ ca: sự giao lưu tình cảm giữa một anh du kích người Kinh và một số cô sơn nữ (thực ra là những nữ sinh trong thành phố sơ tán về miền núi để học tập). Tình cảm ấy bay lên trong một đêm trăng thơ mộng giữa núi rừng tạm im tiếng súng. Chắc chắn nó sẽ là động lực thúc đẩy anh du kích hăng hái đánh giặc hơn nữa. Còn mấy cô sơn nữ kia, biết đâu, chính nhờ tình cảm ấy, một ngày nào đó, sẽ tình nguyện vào du kích như người bạn trai thoáng gặp đêm nay! Lời và nhạc Sơn nữ ca hòa quyện với nhau tinh tế và sâu sắc. Hãy nghĩ lại mà xem: Sơn nữ ca lạc quan đấy, Sơn nữ ca nhân văn đấy! Hãy khôi phục vị trí của Sơn nữ catrong đời sống âm nhạc hôm nay! Việc phê phán Sơn nữ ca và phê phán những tác phẩm tương tự Sơn nữ ca nói trên là một trong những biểu hiện của căn bệnh ấu trĩ tả khuynh của công tác phê bình âm nhạc.
Một ca khúc nữa của Trần Hoàn: Lời người ra đi (1951). Tôi cho rằng Lời người ra đi là một tình ca vào loại khá. Người nghệ sĩ có quyền nói và phải nói đến những hi sinh và gian khổ trong cuộc chiến tranh vì độc lập dân tộc. Không nên căn cứ vào một vài từ ngữ nào đó của Lời người ra đimà chụp cái mũ bi quan xuống đầu tác giả để từ đó, xóa bỏ một thành quả của lao động nghệ thuật.
Hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp chồng chất vô vàn gian khó, ai nấy đều dò dẫm tìm đường. Trong hoàn cảnh ấy, viết được một tình ca nhưLời người ra đi là đáng khuyến khích! Giờ đây, Lời người ra đi vẫn đọng lại trong trái tim lớp trẻ và vẫn vượt xa nhiều bản tình ca nông cạn hôm nay.
Điều đáng tiếc: chính tác giả Trần Hoàn cũng “vui lòng” từ bỏ hai đứa con tinh thần tươi trẻ và cứng cáp ấy của anh!
Các nhà phê bình, xin các bạn đừng bứt bẻ từng chi tiết trong một tác phẩm văn học nghệ thuật! Các nhà sáng tác, xin các bạn hãy giữ vững tinh thần, đừng vì những lời phê bình tả khuynh ấu trĩ mà vội vàng từ bỏ đứa con nghệ thuật của mình!
Tôi tin rằng một ngày kia, người mẹ thông minh và hiền dịu Trần Hoàn sẽ về lại với hai đứa con Sơn nữ ca và Lời người ra đi mà một thời anh đã vội vàng từ bỏ. Tôi cũng tin rằng một hôm nào đó, người mẹ tóc bạc Trần Hoàn mắt nhòa lệ sẽ run run đưa hai tay ra ôm hai đứa con Lời người ra đi và Sơn nữ ca mà anh đã bao năm “tự nguyện” xa lìa!
Có một thực tế không thể chối cãi được: các bản tình ca nói trên của Trần Hoàn, Tô Hải, Nguyễn Văn Tý, Huy Du, Tử Phác, Việt Lang, v.v. suốt nửa thế kỉ nay vẫn đang lay động tâm hồn hàng vạn con người đủ các lứa tuổi. Đó chính là thước đo giá trị của các bài hát ấy.
Về tình ca cách mạng, phải ghi công lớn và ghi công đầu cho nhạc sĩ Hoàng Việt.
Ngay buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ, trong sự cấm kị đối với đề tài tình yêu, Hoàng Việt đã làm rung động hàng vạn trái tim thanh niên nông thôn Nam Bộ bằng Lên ngàn. Lên ngàn là một trong những thành công sớm nhất của tình ca cách mạng trong kháng chiến chống Pháp. Lời ca đầy chất dân tộc, đậm nét đồng quê, vang lên một tình yêu bất diệt và trong sáng. Nhạc điệu du dương, dìu dặt, mơ màng, phảng phất chất dân ca Nam Bộ bay vút lên ở cuối bài rồi dần dần lắng xuống. Với Lên ngàn, Hoàng Việt đột nhiên làm cho âm nhạc kháng chiến chống Pháp được chắp thêm đôi cánh dập dờn và mạnh mẽ của tình yêu.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, tình ca của Hoàng Việt phát triển lên một giai đoạn mới. Năm 1957, trong khi hầu hết các nhạc sĩ chúng ta không vẫy lên đôi cánh tình ca, thì với tình ca “Tình ca”, Hoàng Việt trở nên một trong những người đầu tiên viết tình ca cách mạng thời chống Mỹ như khoảng mười năm trước đó, anh đã là một trong những nhạc sĩ đầu tiên thời chống Pháp viết tình ca cách mạng. Tình ca “Tình ca” đạt tới đỉnh cao của chủ nghĩa nhân văn trong ca khúc Việt Nam thế kỷ 20. Một tình yêu mãnh liệt, rực cháy, thủy chung và bất tử áp đảo bão táp cuộc đời, băng qua bom đạn chiến tranh. Một tình yêu như thế vang vọng từ đầu đến cuối tác phẩm. Không như Lên ngàn, tình ca của thanh niên nông thôn, tình ca “Tình ca” là tiếng hát trái tim của thanh niên nói chung, cả nông thôn lẫn thành thị, nhất là thành thị. Nhờ đó, bài hát chinh phục được tất cả các tầng lớp thanh niên từ Bắc chí Nam.
Suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, tình ca “Tình ca” lôi cuốn lớp lớp thanh niên cả nước lên đường lao vào lửa đạn để giữ gìn tình yêu và hạnh phúc con người. Suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, tình ca “Tình ca” góp phần động viên không ít thanh niên cách mạng vượt qua những đòn tra tấn trong nhà tù của Mỹ ngụy.
Giờ đây, trên tổ quốc hòa bình và thống nhất, tình ca “Tình ca”, với một sức sống diệu kì, vẫn như một hạt kim cương tiếp tục tỏa sáng trong trái tim tuổi trẻ.
Trên bầu trời nghệ thuật dân tộc Việt Nam trong chiến đấu và trong hòa bình xây dựng cần phải có hàng vạn đôi cánh tình ca tung bay để chứng minh cho chủ nghĩa nhân văn chiến đấu của nghệ thuật dân tộc Việt Nam. Đó là bài học vô cùng đắt giá rút ra từ công tác phê bình của các ngành nghệ thuật trong nửa thế kỷ qua ở nước ta kể từ sau cách mạng Tháng Tám.
Cô em xóm núi xay ngô tối / Xay hết lò than đã rực hồng. Trong cảnh tù đày khổ cực, Hồ Chí Minh vẫn bình thản bay lên với đôi cánh nhân và lãng mạn.
Cho đến nay, chúng ta cũng chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện nào về người trí thức yêu nước lỗi lạc Trần Đức Thảo. Anh Thảo vừa nổi tiếng trong phong trào chống thực dân Pháp vừa nổi tiếng trên lĩnh vực nghiên cứu triết học Mác-xít ngay từ hồi anh đang học đại học Xoóc-bon và làm việc tại Pa-ri. Anh Thảo suốt đời bảo vệ chủ nghĩa Mác, kể cả khi Liên Xô đã sụp đổ. Anh Thảo là một nhà nghiên cứu triết học tài giỏi nhất ở nước ta. Anh Thảo có công lớn nhất trong việc phát triển ngôn ngữ lí luận Việt Nam, phát triển ngôn ngữ triết học Việt Nam, phát triển tư duy triết học và tư duy luận lí (tức tư duy lô-gích) Việt Nam. Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu và sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực triết học.
Cuộc đời người trí thức lớn đỗ đầu hai bằng tiến sĩ luật và văn chương đại học Xoóc-bon Nguyễn Mạnh Tường cũng bùng bùng ngọn lửa yêu nước và yêu công lí. Tại hội nghị Đà Lạt (Tây Nguyên) do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Phó trưởng đoàn, Nguyễn Mạnh Tường đã làm cho đối phương phải khâm phục vì trình độ tiếng Pháp vừa hùng hồn vừa bay bướm tuyệt diệu của anh. Anh còn là thành viên của hội nghị Phông-ten-nơ-blô 1946.
Trần Đức Thảo và Nguyễn Mạnh Tường đã góp phần khẳng định được vị trí tiên phong của đội ngũ trí thức cách mạng kiệt xuất và hùng mạnh xuất thân Nho học và Tây học của nước ta thế kỷ 20 dẫn đầu là các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Thai Thân, Đặng Nguyên Cần, Nguyễn An Ninh, Ngô Đức Kế, Phan Kế Toại, v.v.
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ nào về thân thế và sự nghiệp nhà thơ lớn, nhà thơ dân tộc, nhà thơ chiến đấu–trữ tình Nguyễn Bính. Thật là đáng tiếc, Tiểu đoàn 307 thơ Nguyễn Bính và nhạc Nguyễn Hữu Trí chính là hai đóa hồng của văn nghệ cách mạng. Nguyễn Bính suốt đời lặng lẽ sáng tác và sôi nổi chiến đấu vì độc lập của dân tộc, vì tự do của con người và vì chủ nghĩa nhân văn của văn học Việt Nam.
Bên cạnh những thành quả nhất định, phê bình của chúng ta còn có rất nhiều hạn chế cơ bản. Phê bình của chúng ta còn nặng về xã hội học. Nhiều cây bút phê bình chỉ biết thuộc lòng một số “nguyên lí” nào đó. Rồi họ cầm cái “khuôn vàng thước ngọc nguyên lí” ấy, cứ thế, cứ thế đối chiếu máy móc và lạnh lùng vào tác phẩm văn học nghệ thuật. Nói như anh Nguyễn Đình Thi: họ “soi đo”. Rồi họ kết luận: tác phẩm này có vàthiếu tính dân tộc, tác phẩm kia có hoặc thiếu tính chiến đấu, tác phẩm nọ có hoặc thiếu tính điển hình, tác phẩm khác có hoặc thiếu cá tính hóa nhân vật, v.v. Họ nói như thánh phán, parler comme un oracle. Tệ hại hơn, một số trường hợp phê bình một tác phẩm nhưng người phê bình chưa hề đọc tác phẩm ấy bao giờ! Đấy là chưa kể, đôi khi, vài ba cây bút phê bình còn tìm mọi cách ngụy biện để đề cao và tung hô dăm ba người nào đó, để quảng cáo cho dăm ba người nào đó nhằm những mục đích không trong sáng. Tôi biết quá đi chứ!
Hồi 1989, tôi viết:
Văn chương bút bẩn, bao hàng rởm Lý luận dầu trơn, ối tập dày! Nói những ba voi, không bát xáo Tàn canh, quảng cáo cái gì đây?”
“Thưa anh, biết. Bài “Quảng cáo”.”
Im lặng nhìn tôi một thoáng, tác giả Nước non ngàn dặm nói tiếp:
“Do áp dụng máy móc lí luận về cái tôi trong văn học phương Tây vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu–lí luận–phê bình đã đi đến một nhận định sai lầm: cái tôi trong văn học Việt Nam chỉ xuất hiện từ phong trào Thơ Mới! Thật hài hước! Đến là hài hước! Không thể dùng định nghĩa về cái tôi của văn học phương Tây để đi tìm cái tôi trong văn học Việt Nam!
Thơ văn Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, v.v. chất ngất cái tôi. Trong Trùng Quang tâm sử, một nhân vật của Phan Bội Châu đã hùng hồn phát biểu: Đời tôi, tôi chỉ thích anh hùng và người đàn bà đẹp, Nhiều bức tượng dân gian hiện vẫn còn lưu giữ được trên đất nước ta diễn tả những cuộc giao hoan trai gái.
Những tác phẩm văn học nghệ thuật đó biểu hiện sâu sắc cái tôi mãnh liệt, cái tôi trí tuệ, cái tôi nhân văn chủ nghĩa của riêng Việt Nam. Sao lại bảo trước khi phong trào Thơ Mới ra đời, văn học Việt Nam chưa xuất hiện cái tôi?! Các nhà nghiên cứu–lí luận–phê bình nói trên không thấy được cái tôi trong tác phẩm của các bậc danh nho và đại danh nho Việt Nam, về căn bản, khác hẳn cái tôi trong văn học Pháp, văn học phương Tây, văn học Nga và văn học Trung Quốc, v.v.
Xa rời thực tiễn Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu–lí luận–phê bình đã máy móc và lạnh lùng đem định nghĩa về điển hình hóa và cá tính hóa nhân vật trong văn học phương Tây thế kỷ 19 làm tiêu chuẩn đánh giá truyện thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản sân khấu Việt Nam từ thời phong kiến cho tới bây giờ!
Xa rời thực tiễn Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu–lí luận–phê bình đã áp dụng máy móc và lạnh lùng định nghĩa về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa Liên Xô (hiện thực cách mạng kết hợp với lãng mạn cách mạng) vào việc đánh giá văn học cách mạng Việt Nam 1930–45 và văn học Việt Nam nói chung từ sau cách mạng Tháng Tám trở đi. Thật vô lí khi đem lí luận về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa Liên xô đối chiếu máy mócvà lạnh lùng vào các tác phẩm văn học nghệ thuật Việt Nam về đề tài giải phóng dân tộc và đề tài xây dựng đất nước Việt Nam! Khi Liên Xô còn tồn tại, sự đối chiếu máy móc và lạnh lùng ấy đã vô lí. Nhưng càng vô lí gấp bội, khi giờ đây, Liên Xô tan rã, nhiều nhà lí luận–phê bình–nghiên cứuvẫn lạnh lùng và máy móc đem lí luận về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của Liên Xô cũ làm khuôn mẫu đánh giá văn học và nghệ thuật nước ta trong giai đoạn Đổi Mới hiện nay! Họ rơi tõm vào cái hố của chủ nghĩa giáo điều! Họ quên bẵng một nhận xét sáng suốt của Nguyễn Ái Quốc: Châu Âu không phải là toàn thế giới. Họ quên bẵng một câu nói quan trọng của Hồ Chí Minh: Học Mác là học tinh thần của Mác chứ không phải là thuộc lòng chủ nghĩa Mác để rồi cứ thế mà đem áp dụng máy móc vào thực tiễn sinh động và muôn hình muôn vẻ ở nước ta. Họ quên rằng hoàn cảnh Liên Xô, về cơ bản, khác hẳn hoàn cảnh Việt Nam. Họ luôn luôn kêu gọi chống giáo điều và chống máy móc nhưng chính họ lại tự giam mình trong vòng vây của chủ nghĩa máy móc và chủ nghĩa giáo điều!
Đã đến lúc cần có một cái nhìn khác đi, một cái nhìn vô tư và dũng cảm về những nhà văn nghệ cách mạng nói trên và nhiều nhà văn nghệ khác, nhiều tác phẩm văn nghệ khác.
Đã đến lúc phải tìm ra bằng được tiêu chuẩn Việt Nam để đánh giá, để bình luận văn học nghệ thuật Việt Nam.
Tiêu chuẩn cao nhất về nội dung là tinh thần dân tộc, là tinh thần yêu nước, là ý chí cứu nước, là tinh thần đoàn kết dân tộc, là chủ nghĩa nhân văn Việt Nam và tâm hồn Việt Nam. Tiêu chuẩn cao nhất về nghệ thuật cũng là những nét đặc thù của dân tộc Việt Nam. Tham khảo các tiêu chuẩn nước ngoài, tham khảo lí luận nước ngoài nhưng không lệ thuộc nước ngoài, không xóa bỏ các tiêu chuẩn Việt Nam và không xa rời thực tiễn Việt Nam. Đừng đánh giá văn học nghệ thuật nước ta theo bất cứ khuôn mẫu nào lấy từ bất cứ một nước ngoài nào. Đừng đánh giá văn học nghệ thuật Việt Nam theo bất cứ câu nói nào hoặc bất cứ “lời dạy” nào của bất cứ ai ở bất cứ một nước ngoài nào. Tôi không bài Xô. Tôi không bài Trung. Tôi không bài ngoại. Tuy nhiên, càng về sau này, tôi càng thấy cần phải dựa vào những tiêu chuẩn Việt Nam do các bậc đại danh nho và danh nho Việt Nam đặt ra từ nhiều thế kỷ trước kết hợp với những nguyên tắc do Bác Hồ gợi ý, tôi nói: Bác Hồ gợi ý chứ không nói: Bác Hồchỉ thị, để phê bình và nghiên cứu văn học nghệ thuật và quy hoạch đô thị nước ta.”
4.
5.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét