Tính không mở thêm một entry nữa, mà chỉ muốn dán thêm vào entry cũ (ở đây). Nhưng entry cũ đã quá dài. Nên đành mở thêm ra ở đây vậy.
Từ đây trở xuống là của Thái Doãn Hiểu.
Trước hết là ghi chú về nơi đăng tải đã:
"
http://vannghecuocsong.com/
"
Và dưới là nguyên văn.
---
"
THÁI DOÃN HIỂU
Thưa qúy ông qúy bà - một bộ phận ưu tú nhất của dân Quảng Nam hay cãi chày cãi cối..
Sự thật về Nhật ký Thùy Trâm đã được giải quyết khá rốt ráo khi quyển sách ra đời năm 2005. Hàng ngàn bài báo đã vào cuộc. Kẻ khen khen hết lời, người chê chê tới số. Tôi thấy người ta mở diễn đàn rất sôi động bàn về tính chân xác của Nhật ký ĐặngThùy Trâm. Và họ đã đi đến kết luận sau:
“Nhật Ký Đặng Thùy Trâm”: Sản phẩm dối trá, phản bội
Việc tìm ra thông tin này không khó trong thế giới bùng nổ thông tin qua internet. Khi viết công trình triết học Minh triết Thật - Giả, tôi TDH đã huy động đến khoảng 300 nghi án văn học, nghệ thuật, cuộc đời để làm điểm tựa cho cho việc tranh biện triết học. Đặng Thùy Trâm là một trong số nghi án nhỏ đó. Là người làm triết học, tôi không quan tâm tới đời tư của Đăng Thùy Trâm mà chỉ lưu ý đến tính thật giả của nhân vật này. Tôi nghĩ rằng mỗi dẫn luận đã được bạch hoá trên mạng hoàn cầu thì khi dẫn nó chỉ cần viết rất ngắn gọn, không cần đối chứng cà kê. để chiều lòng những bạn đọc có trình độ thấp và mù internet, kẻo không quyển sách sẽ đội lên hàng ngàn trang không tiện cho việc in ấn. Và tai họa đã đến. Vì quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng (khách hàng), tôi đã chỉ cho các vị món hàng trên tay mình là hàng giả. Thay vì phải xem xét thật giả ra sao thì các vị lại nông nổi gom đá hè nhau ném tới tất vào ân nhân của mình. Tôi bị quý ông quý bà ném đá kiểu trung cổ suốt 5 ngày đêm không ngớt. Chỉ khi một cư dân mạng Văn nghệ và Cuộc sống tên là Võ Sơn hạ câu
Võ Sơn - 10/05/2015 09:35
“Nếu họ chịu khó đọc bản gốc của 2 tập nhật ký thì chắc chắc sẽ thấy những gì ông TDH viết là chính xác 100% không sai tí nào cả.”
Võ Sơn - 10/05/2015 09:54
Gởi Ông Trần Thái Bình:
Nguyễn Văn Thạc bị chính quyền địa phương bắt vào bộ đội là đúng. Ông có thể kiểm chứng bằng cách:
1. Đọc cái wikipedia trích dẫn dưới đây (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Th%E1%BA%A1c )
2. Hoặc liên lạc và nói chuyện với gia đình Nguyễn Văn Thạc thì sẽ biết ngay.
Trích từ http://vi.wikipedia.org:
"... Năm lớp 10 (năm cuối bậc trung học phổ thông), ông đạt giải Nhất cuộc thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc, năm học 1969-1970. Với thành tích đó ông được Ban Tuyển sinh Hà Nội xếp vào diện cử đi đào tạo tại Liên Xô. Tuy nhiên học lực và hạnh kiểm chỉ là hai trong nhiều tiêu chuẩn xét cử đi học nước ngoài thời đó. Nhưng theo chủ trương chung, phần lớn những học sinh xuất sắc năm đó đều phải ở lại để tham gia quân đội. Trong khi chờ gọi nhập ngũ, Thạc đã xin thi và đỗ vào khoa Toán – Cơ của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Vừa học năm thứ nhất, ông vừa tự học thêm để hoàn thành chương trình năm thứ 2 và được nhà trường đồng ý cho lên học thẳng năm thứ 3...."
"đều phải ở lại để tham gia quân đội" có nghĩa là bị bắt đi B.
Nguyễn Văn Thạc bị chính quyền địa phương bắt vào bộ đội là đúng. Ông có thể kiểm chứng bằng cách:
1. Đọc cái wikipedia trích dẫn dưới đây (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Th%E1%BA%A1c )
2. Hoặc liên lạc và nói chuyện với gia đình Nguyễn Văn Thạc thì sẽ biết ngay.
Trích từ http://vi.wikipedia.org:
"... Năm lớp 10 (năm cuối bậc trung học phổ thông), ông đạt giải Nhất cuộc thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc, năm học 1969-1970. Với thành tích đó ông được Ban Tuyển sinh Hà Nội xếp vào diện cử đi đào tạo tại Liên Xô. Tuy nhiên học lực và hạnh kiểm chỉ là hai trong nhiều tiêu chuẩn xét cử đi học nước ngoài thời đó. Nhưng theo chủ trương chung, phần lớn những học sinh xuất sắc năm đó đều phải ở lại để tham gia quân đội. Trong khi chờ gọi nhập ngũ, Thạc đã xin thi và đỗ vào khoa Toán – Cơ của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Vừa học năm thứ nhất, ông vừa tự học thêm để hoàn thành chương trình năm thứ 2 và được nhà trường đồng ý cho lên học thẳng năm thứ 3...."
"đều phải ở lại để tham gia quân đội" có nghĩa là bị bắt đi B.
Thế là tịt mít, im như thóc.Các quý ông quý bà mặt như quả bóng xì hơi then thùng tản mác mỗi người mỗi nơi hệt đám bèo bọt. Thật đáng thương cho một loại người mọi rỡ ngu trung cuồng tín biết một mà không biết mười. .
Có lẽ đến đây tôi không cần nói thêm một câu nào nữa. Xin cảm ơn ông Võ Sơn rất nhiều khi đã vô tư chiêu tuyết cho tôi. Thế là mỡ nó tự rán nó, không tốn một chút công sức nào cả. Nhưng biết đâu có kẻ vẫn ngoan cố không chịu thì làm sao ?. Thì tôi sẽ phải làm cho họ tâm phục khẩu phục mới thôi.
Trong kho tư liệu của tôi có hàng ngàn trang nghiên cúu về Nhật ký Đặng Thùy Trâm, tôi xin mạn phép dẫn ra đây vài chục trang của nhà nghiên cứu Thiên Đức bởi sự so sánh đối chứng tương đối kỹ càng với bản gốc và trên nền tảng tổng hợp khá khoa học và chặt chẽ những bài viết trên diễn đàn BBC, TALAWAS, ĐÀN CHIM VIỆT. Âu đó cũng là cách khai hóa hữu hiệu cho những kẻ đầu óc u mê, chậm hiểu
1.- NGUỒN:
Cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm của Nhà xuất bản hội nhà văn được độc giả trong và ngoài nước chú ý, toàn bộ hệ thống báo chí Việt Nam thậm chí cả guồng máy chính quyền đều đề cao tán dương như là một điển hình anh hùng cho thế hệ trẻ Việt Nam, trong lúc đó lại có nhiều tranh cãi tính xác thật của nhật ký trên các diễn đàn BBC, Talawas, Đàn Chim Việt.... Đâu là sự thật? người viết bắt đầu đi tìm nguồn tài liệu ở diễn đàn BBC, mở bài “Không xuyên tạc Nhật Ký Đặng Thùy Trâm” bấm vào tựa bên phải “Nhật ký Đặng Thùy Trâm bản gốc và bản in”. ( có thể trực tiếp vào trang web: http://annonymous.online.fr/Upload/Nhat%20ky%20Dang%20Thuy%20Tram/
Sau cùng, người viết đã có đầy đủ 3 tập tài liệu sau đây:
1)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 1
2)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 2
Hai bản này gọi là bản GỐC (viết tắt BG)
3)- Bản in thực tế của NXB Hội Nhà Văn. Viết tắt nkdtt .
(Chú ý bản in ở trên internet chỉ là những trích đoạn, không có giá trị để đối chiếu)
Mở đầu nhật ký bản in, nhà xuất bản cho biết (tr. 7): Trong quá trình biên soạn và chỉnh lý, chúng tôi cố gắng tôn trọng nguyên bản câu văn cũng như những thói quen dùng từ và ngữ pháp của tác giả - chỉ sửa lại một số từ địa phương hoặc lược bớt những từ trùng lặp..
Theo đài BBC, ông Vương Trí Nhàn, xác nhận ông chỉ tham gia ở khâu cuối cùng và về mặt kỹ thuật nhiều hơn nội dung. Bà Đặng Kim Trâm, em út của bà Đặng Thùy Trâm là người chủ biên, quyết định nội dung phần ra mắt công chúng. Theo ông Nhàn rằng bà Kim Trâm khẳng định bà dám chịu trách nhiệm và không sợ thách thức của dư luận.
Bà Đặng Kim Trâm đã tái xác nhận trong cuộc phỏng vấn với đài BBC ngày 15-10-2005 “ Ban đầu tôi e ngại là các ý nghĩ quá đỏ có thể không phù hợp với giới trẻ bây giờ. Nhưng khi tự tay đánh máy cuốn sách tôi thấy không thể bỏ đi một câu nào....”
Kết quả đối chiếu sau đây đã cho thấy lời nói không đi đôi với việc làm.
2.- ĐỐI CHIẾU:
2.1- BẢN GỐC:
Bản viết tay quyển 1 có 118 trang quyển 2 có 28 trang.
Nhật ký được viết từ ngày 8-4-68 đến ngày 20-6-70. Một ngày viết một đoạn ngắn, nhật ký có được 276 đoạn. Nhật ký bản gốc được trình bày theo thứ tự thời gian và diễn tiến sự việc.
2.2.- BẢN IN của Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn (nkdtt)
Bản in gồm 322 trang... Trang đầu ghi Đặng Kim Trâm chỉnh lý, Vương Trí Nhà giới thiệu. Trang cuối ghi Biên tập : Vương Trí Nhàn. In 20.000 cuốn, Số đăng ký..... cấp ngày 5.7.2005... nộp lưu chiểu quý IV-2005. Không thấy ghi lần tái bản. Như vậy từ khi cuốn sách xuất bản vào tháng 7 cho đến nay khoảng 4 tháng chưa có tái bản lần nào (?).
Cảm nhận đầu tiên khi so sánh, đối chiếu bản in nkdtt với bản gốc, người viết có cảm giác cuốn sách được xuất bản một cách vội vàng phục vụ nhu cầu chính trị hơn là phục vụ độc giả vì rằng trong cuốn sách có những lỗi sơ đẳng nhất là đánh máy lộn ngày tháng hay những đoạn trên đưa xuống đoạn dưới mà người đánh máy biết rõ mà không chịu sửa chữa vì với máy computer hiện nay dùng lệnh cut, past điều chỉnh rất dễ dàng khi người đánh máy bị nhầm lẫn. Nhưng tại sao lại không làm?
2.2.1.- NHẦM LẪN NGÀY THÁNG: Nhiều ngày ghi nhật ký đã bị đổi thay hay sát nhập với nhau nên khó so chiếu với bản gốc.
... 68 là ngày 15-4-68 (bg), 27-7- 68 là 28-7-68 (bg), 19-11-68 là 11-11-68 (bg), 8-3-69 là 3-3-69 (bg), 9-3-69 là 9-3-69 cọng thêm 11-3-69 (bg), 8-1-70 là 3-1-70(bg), ngày 29-3-70 gộp 2 ngày 28-3-70 và 29-3-70 (bg)
2.2.2.- ĐOẠN VĂN BỊ XÁO TRỘN VÀ CẮT XÉN
9-3-69 (tr. 132)
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở đây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.
[(bg) ngày 11-3-69
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở dây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là một người thương binh nặng, bàn tay dập nát mà vẫn cười lạc quan tin tưởng.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.]
2.3.3.- NHỮNG ĐOẠN VĂN BỊ CẮT XÉN
Ngoài những sửa chữa thay đổi vài từ ngữ có tính cách kỹ thuật, người viết tìm thấy có đến 21 đoạn nhật ký bị cắt xén, ảnh hưởng đến nội dung như sau:
2-6-68 Mất đoạn cuối
Tr.53 tiếp theo dòng cuối trang .... đó là một cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng lạc hậu và tiến bộ. [”bg): Tư tưởng lạc hậu là của những người còn mang những tàn dư của tư tưởng phi vô sản và tư tưởng tiến bộ là của những người đang phấn đấu vì sự nghiệp chung. Quy luật đó là lẽ tất nhiên. “]
12-5-69 thiếu đoạn cuối
Tr.151 tiếp câu cuối .... nhưng với anh Long thì đúng như vậy. [(bg) Nằm nói chuyện với anh nghe anh kể về những ngày công tác của anh mình thốt lên “Giá mà em được ở gần anh em sẽ học được bao nhiêu điều hay” được về công tác với anh đó là một mong ước rất thành thực. Nếu vừa rồi không có sự thay đổi trong biên chế chắc điều đó đã thực hiện rồi.]
18-5-69
Tr.152 ... chừng nào ... [ (bg) ... Cả miền Nam đang tấn công, trên suốt dải đất mênh mông này ở đâu lại chẳng có các anh? Đâu chẳng có bàn chân những người trai dũng cảm.
Tôi biết trong các anh có rất nhiều và rất nhiều người quê ngoài XHCN . Các anh có nhiều người cũng mới từ những ngày hòa bình bước vào cảnh lửa đạn này. Hôm nọ, gặp mấy chàng trinh sát trẻ măng nước da trắng dưới lớp lông măng trên má, chắc rằng đó là những học sinh cấp hai mới rời cây bút để nhận khẩu súng lên đường đi chống Mỹ cứu nước.]
.... Vậy đó, cả nước đã lên đường,[ (bg) cả nước đang lăn mình trong cuộc chiến đâu nhất định phải dánh thắng giặc Mỹ xâm lược nhất định phải trả về cho chúng ta những ngày độc lập tự do.]
25-6-69 thiếu 2 câu
tiếp dòng thứ 2 trang 162... như Paven trong trường hợp đó . [(bg) Cuộc chiến này biết mấy gian lao, chúc Th. đứng vững bên cương vị của người Cộng Sản...]
16-7-69 16-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.168...” Lối đó là lối bà già vợ thằng Hùng đó”. [(bg) Ôi! những người dân Việt Nam anh hùng, có lẽ trên trái đất này không ai chịu nhiều khổ đau như mỗi người dân miền Nam anh dũng.]
26-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.172 cuối trang.... mà chị đêm ngày thương nhớ thiết tha. [(bg) Con đường em đi những bước đi còn chập chững nhưng chông gai gian khổ đầy nước mắt. Chúc em đi những bước vững vàng.]
6-8-69 thiếu đoạn cuối
Tr.179 cuối trang.... Chắc không thể có nụ cười và tiếng đàn sôi nổi ấy. [(bg) Ôi! Cuộc cách mạng ở mảnh đất này mới kỳ lạ làm sao, đau thương tang tóc ở đâu bẵng và lạc quan sôi nổi cũng không đâu bằng.]
1-9-69 thiếu đoạn cuối
\
Tr.187 cuối trang .... Không hiểu anh Sơ có biết rằng trong câu gửi gắm ấy có tình người anh lo cho đứa em gái hay không. [(bg) Anh Năm ơi, anh đi bình an nhé, em sẽ đón anh trở về trong niềm vui và tình thương sâu dậm của một đứa em gái.]
1-11-69 thiếu một hàng cuối
Tr.195 ... Anh đi bình an và mau về nghe anh. [(bg) người anh thân thương rất đỗi!]
5-11-69 thiếu đoạn cuối
Tr.196 .... con cháu nheo nhóc ở vào đâu? [(bg) Ôi! Giặc Mỹ chồng bao tội ác của bay đã chất đầy như núi. Còn sống ngày nào tao thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để trả được mối thù vạn kiếp đó.]
26-02-70 Thiếu đoạn cuối
Tr. 228 ... Tình thương của mình bỗng dột xuất mà sôi nổi lạ lùng. [(bg) Tuy nhiên lúc em ra về mình cũng chỉ căn dặn em cảnh giác cố gắng tập cho cánh tay mau bình phục rồi nhìn em bằng đôi mắt trìu mến. Thôi, đi nghe em, chúc em khỏe mau trở về với đội ngũ chiến đấu.]
27-02-70 Thiếu mất hai đoạn
Cuối Tr.228. Phải chăng vì Thuận đã làm được những điều trên?
[(Bg) Tất nhiên trong bước đường đi không ai không vấp phải khuyết điểm. Mình không hề sợ khuyết điểm, cái gì sai thì cố gắng khắc phục, cái gì đúng cố gắng phát huy không theo đuôi quần chúng, không độc đoán quan liêu, không vì sợ mất lòng mà bỏ nguyên tắc. Trước khi làm một việc gì phải cân nhắc kỹ không hướng mình đang đứng trong vai trò của một diễn viên trên sân khấu bao nhiêu đôi mắt khán giả đang nhìn, mình làm được điều đó là dĩ nhiên vì mình là một diễn viên, họ chỉ khen khi nào mình thật xuất sắc (mà điều đó thì mình chưa thể làm được). Nếu mình làm còn thiếu sót họ sẽ chê, chê nhiều, vậy mà cũng đòi làm diễn viên, dở quá vv và vv...]
Tr. 229 Bao nhiêu năm thoát ly vào sinh ra tử trên chiến trường miền Nam bây giờ lại để nó chỉ huy!...”
[(bg) Không các đồng chí ơi!, tôi làm việc cũng chỉ vì sự nghiệp của cách mang, Đảng giao phó cho tôi, nhưng trách nhiệm quan trọng cũng chỉ vì Đảng muốn tận dụng hết khả năng sức lực của tôi để phục vụ cho Đảng nhiều nhất. Tôi vinh dự vì được tin cậy nhưng không vì vậy mà tôi kiêu căng. Tôi hiểu lắm chứ tuy rằng được học tập trang bị nhiều lý luận trong nhiều năm trên ghế nhà trường nhưng có nhà trường nào lớn bằng trường đại học thực tế đâu? Tôi mới vào đây 3 năm dĩ nhiên không thể bằng những đồng chí đã trải qua 10 năm, 20 năm trên chiến trường gian khổ, cho nên hãy đến với tôi bằng tình thân của những người cùng chung giọt máu để đổ xuống cho đất nước tự do, bằng tình thương của những kẽ xa nhà lấy gia đình cách mạng làm chỗ dựa duy nhất trong cuộc sống. Hãy chỉ bảo giúp đỡ tôi để tôi trở thành một đồng chí phục vụ đắc lực cho Đảng. Phần tôi, tôi tự biết tôi phải làm gì, tự biết năng lực của mình và tự nhủ mình phải khiêm tốn học hỏi thật nhiều mọi người xung quanh.]
8-3-70 thiếu một câu cuối
Tr.233 Phải như Paven, như Ruồi Trâu, hay như M của mình đó. [(bg) Nhất định phải vậy nghe Th.!]
30-3-70 thiếu câu cuối
Tr. 237 ... hãy mạnh dạn mà đi, vững bước mà đi nghe. [(bg) người con gái XHCN trên đất miền Nam ]
5-5-70 thiếu hai đoạn
Tr.241 Nhưng tao đã thề cùng các đồng chí của tao rồi, dù có chết cũng quyết đánh cho đến cùng [ (bg) để đánh giập đầu con rắn độc hiếu chiến].
Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột. Tại sao cũng là con người mà lại có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng bào để làm nước tưới cho gốc cây vàng của nó như vậy.
[(bg) bao nhiêu cũng không đủ túi tham, bao nhiêu cũng không thỏa mãn cái cuồng vọng của bọn quỷ khát máu.]
13-5-70 Thiếu đoạn cuối
Tr.243 những dòng chữ của mình vẫn theo em trên khắp chặng đường chiến đấu. [(bg) Em ơi, hãy bồi đắp cho tình cảm chị em mãi mãi thắm thiết như ngày xưa ta sống cùng nhau trên quê hương Phổ Hiệp. Thực ra trong những ngày qua cũng có đôi nét mờ đi trong bức tranh tuyệt đẹp của mối tình cảm ấy vì không biết giữ gìn, lỗi đó ở em hay ở mình.]
19-5-70 Thiếu đoạn cuối.
Tr.246 Vậy ra anh cũng hiểu mình đấy chứ. [(bg) nhưng tại sao vậy hở anh? Tại sao nỗi lo cho mình trước lúc ra đi “là điều lo anh để lên hàng đầu” mà anh lại cũng làm thinh không nói? Tại sao lúc chưa gặp anh mong chờ da diết mà lúc em đến anh lại cũng làm thinh? Ôi người anh thân thiết, anh rất gần mà lại cũng rất xa. Em hiểu anh hết mà rồi lại cũng không hiểu hết (mà chính anh cũng thắc mắc với anh nữa kia mà!) Sao vậy hở anh? ]
4-6-70 thiếu đoạn cuối
Cuối Tr. 247. vì sao ta không thể đến với nhau trong mối quan hệ tốt đẹp và chính đáng đó?
[(bg) Cách mạng miền Nam ! Nhiều cái anh hùng, nhiều chuyện lịch sử mà cũng còn nhiều phức tạp, nhiều rác rưởi trong xã hội, cũng dễ hiểu thôi, vì tất cả cho sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước nên ta chưa thể tập trung sức lực để xây dựng con người XHCN, những con người toàn diện, biết sống vì mọi người, biết cách ăn ở và nếp sống có văn hóa.]
2.2.5.- CHÍN NGÀY BỎ SÓT
10-11-68 :
[(bg) Những hoạt động xã hội ngày một mở rộng đối với mình. Đại hội phụ nữ tỉnh mời dự, hội thanh niên giải phóng mời dự nhưng mình không có điều kiện tham gia. Trong cách bố trí sắp xếp kể ra cũng có những điều kiện chưa hợp lý. Một lần nữa mình hiểu thêm về lòng ghen tỵ của người đời, vẫn còn những người không vui khi thấy đồng chí mình tiến lên.
Những phút giây lịch sử trong tình chị em, trong đời người. Hãy nhớ trọn đời nghe em!]
7-12-1968
[(bg) Gặp Thường, rất lâu rồi mới được ngồi bên em nói chuyện cùng em như những ngày công tác dưới đồng bằng. Một năm qua trong xa cách, chị vui sướng thấy rằng mỗi chị em mình đều bước đi những bước trưởng thành và tình chị em cũng đã lớn lên dày dạn với thời gian. Vũng vàng trước sóng gió. Hãy vun xới cho tình cảm ấy lớn lên và lớn mãi lên nghe em!]
23-5-69
[(bg) Về công tác Phổ Cường. Đêm mờ biết bao ở nhà chị Hạnh: “Không bao giờ tự cầm dao cứa đứt mạch máu trong cơ thể mình” Không, thực tế thì có vậy nhưng em thì không có. ]
26-10-69
[(bg) Những ngày sống bên anh có cái gì làm mình cảm thấy quên đi những ngày gian khổ đang đe dọa bên mình. Có phải vì bàn tay ấm áp của anh đã nắm chặt tay mình truyền cho mình sức mạnh để đánh bạt mọi gian khổ hay không? Có phải những ngón tay nhỏ nhắn của anh đã vuốt trên mái tóc mình thân thiết truyền cho mình tình thương ruột thịt làm mình quên đi cái cô đơn của một kẽ xa nhà? Và có phải đôi mắt đen anh đã nhìn mình qua bóng đem và qua cả những phút giây ngắn ngủi giữa mọi người đã nói với mình rằng: “Hãy vững bước nghe em, trên con đường gian khổ nhưng vinh quang mà em đã chọn, bao giờ cũng có các anh giúp đỡ em với tình đồng chí và có anh dìu dắt em trong cánh tay của một người anh”
Cảm ơn anh nghe anh, em sẽ sống xứng đáng làm một đứa em và một người đồng chí của anh, có nghe em nói không hở anh Năm thân thương của em?]
19-01-70
[(bg) Cám ơn anh, người đồng chí thân thương. Anh đã đến với em bằng tình thương chân thành ruột thịt, anh đã là một chỗ dưa trong cuộc sống của em. Cuộc đời thật phức tạp, không biết ở sao cho vừa lòng tất cả được, cũng như anh đã nói: “Đó là lẽ dĩ nhiên, em không bao giờ bi quan khi gặp trở ngại trong bước đường đi lên của mình”. Như bao lần em đã nói cuộc sống là một bức tranh đủ màu sắc, bên cái màu chủ đạo là màu đỏ chiến thắng và mà xanh ước mơ vẫn có thêm màu đen trong tóc màu xám lạnh lùng nham hiểm. Dù sao em cũng vẫn yêu cuộc sống, cuộc sống của những người cách mạng tha thiết tình thương và cháy bỏng niềm tin vào sức mạnh của mình. Anh Năm thân thương, anh tin em chứ? Tin ở đứa em gái của anh nghe anh.]
15-02-70
[(bg) Những ngày sống bên anh, sung sướng cảm thấy tình anh em ngày thêm gắn bó trưởng thành. Em tin anh như tin chính bản thân em. niềm tin ấy giúp em đi lên, đạp bằng mọi chông gai trở lực vươn lên làm chủ cuộc sống của mình. Sung sướng biết bao khi trong bước đi gian khổ, luôn có anh dìu dắt, anh lo cho em từng ly từng tý, anh dạy bảo em với tình một người anh trai với đứa em gái, anh xây dựng cho em với trách nhiệm một bí thư huyện ủy với một đồng chí mới làm công tác Đảng, anh săn sóc em với tình đồng đội cùng chung trong cuộc chiến đấu sinh tử này. Hãy giữ tròn mãi mãi “...trong ngần thiết tha” nghe anh Năm!]
24-3-70
[(bg) Đọc những lá thư của anh càng hiểu càng thương anh vô cùng, anh Năm ạ. Quả thực anh đã lo, đã thương em với tình thương sắt son ruột thịt, anh em ta thường nói với nhau rằng: Dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ trọn tình anh em thủy chung như nhau. Đâu có phải em không tin anh, em thường nói với chính em rằng em tin anh như tin bản thân mình nhưng ngay cả bản thân mình em cũng nhiều lúc không hiểu rằng xử trí như vậy đã đúng chưa. Vì vậy anh đừng trách khi em giận anh. Thực ra cũng có một tình thương sâu đậm nên em mới cảm thấy giận anh, nếu không, một lá thư như vậy, những câu nói như vậy hết sức bình thường với những người khác nhưng với em lại là khác, em đòi hỏi ở anh một sự quan tâm, đòi hỏi ở anh những biểu hiện của một tình thương đằm thắm trong sạch của một người anh trai với đứa em gái cưng của anh. Đòi hỏi ấy có cao không nhỉ? “Anh đã dành tất cả tình thương duy nhất, độc nhất cho em gái anh” Thì như vậy đâu phải là cao. Vậy đó anh à, hãy hiểu em nhiều hơn nữa nghe anh, hiểu cái đứa em gái có trái tim đầy nhiệt tình, đầy ưu ái, niềm tin ở cuộc đời. Em còn dại lắm, em tin người ta dễ dàng mà cuộc đời lại chưa phải đáng để tin như vậy. Mong anh sẽ là người dìu dắt em đi vững bước một trên con đường chông gai nguy hiểm nhưng rất đỗi vinh quang mà anh em mình đã chọn.]
01-4-70
[(bg) Kỷ niệm 10 năm ngày vào Đoàn, 10 năm qua từ một thiếu niên bây giờ Th. đã là một cán bộ dày dạn trong khói lửa. Th. không thể tự hào mà chỉ thấy rằng mình đã làm đúng như lời thề dưới cờ Đoàn trong ngày hôm ấy.
Những đêm dài suy nghĩ, Th. ơi, hãy nghiêm khắc với bản thân hơn nữa, đừng để một câu hỏi làm đau nhói trong Th. Tại sao mọi người không hiểu Th? Mà hãy hỏi: Tại sao Th. lại để mọi người không hiểu mình? Đành rằng có những người không tốt: nhỏ mọn, ghen tuông, kèn cựa nhưng dù họ với tính cách như vậy vẫn có một số người họ không thể nói được. Vậy thì hãy làm như những người đó. Đừng khóc Th. ơi, nước mắt hãy giành cho ngày gặp mặt những người thân yêu. Đêm khuya nằm bên những người đồng đội, họ đã ngủ, hơi thở đều đều, ngoài kia từng tràng pháo nổ dậy trời. Ơi những người đồng chí của tôi, ta đang cùng chung hơi thở giữa chiến trường lửa khói, hãy thương yêu đùm bọc lấy nhau, sống chết kề một bên, ghen tuông kìn cựa để làm gì?]
05-4-70
[(bg) Có phải mình cô đơn mà cảm thấy nhớ thương đến vô cùng hay không hở người anh thân thiết của em? Chiều nay Cúc lên đường về cơ quan phục vụ, bỗng nhiên nỗi buồn nhớ như tăng lên bội phần. Cuộc sống sao mà phức tạp mà sao mình lại làm một con bé sống với trái tim giàu tình cảm như thế này? Tại sao ư? Vì từ nhỏ đến giờ nó là như vậy. Nghe những ý kiến của chị Hạnh cảm thấy buồn lạ lùng. Con người vẫn có những kẻ sống với tầm mắt nhỏ hẹp, họ không thể có được những tình cảm trong sáng chân thành như một số người khác. Với họ chỉ có vật chất, chỉ có xác thịt!! Ôi ghê tởm làm sao. Anh trai của em ơi, có đúng như lời anh đã nói đó không? “Tình anh em ta sẽ tồn tại mãi mãi dù thời gian, không gian biến động thế nào” nghĩa là ta sẽ đàng hoàng thanh bạch mà sống, đạp qua mọi rác rưởi gai góc cản trở đường đi của ta. Em cũng sẽ làm như anh, sẽ thực hiện đúng như lời em đã hứa cùng anh.]
3.- TÁC GIẢ:
Bàn về một tác phẩm mà không tìm hiểu tác giả là một điều thiếu sót không thể tha thứ được cho dù người đó đã nằm xuống. Trong bản gốc của nhật ký không có ghi tiểu sử của tác giả, nhưng theo lời kể của gia đình và nhân chứng trong sách in có thể sơ lượt như sau:
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942
1960-1961: Học sinh lớp 10C trường trung học Chu Văn An Hà Nội.
Năm 1966: Tốt nghiệp bác sĩ mắt Đại học y khoa Hà Nội (?)loại ưu.
Năm 1967: Vào Nam chiến đấu, phụ trách một trạm xá nhỏ ở Đức Phổ Quảng Ngãi.
Chết lúc 17g20 ngày 22-6-1970.
Nhiều người đã đặt nhiều nghi vấn về chức danh bác sỹ của DTT, bởi nguyên do thời gian theo học đại học y khoa khá ngắn ngủi(?)vì vậy người viết phải làm cuộc so sánh như sau:
3.1.- THỜI GIAN: Trước 1975 tại miền Bắc, hệ giáo dục trung học là 10 năm. Đào tạo bác sĩ chỉ có 5 năm (?).Trong khi ở miền Nam hệ trung học là 12 năm, và đại học y khoa thường là 7 năm.
Như vậy ở miền Bắc, một người bác sĩ chỉ mất 15 năm học ở nhà trường. Ở miền Nam phải mất 19 năm.
3.2.- HỌC TRÌNH: Học sinh Miền Nam chỉ thuần túy học về chuyên môn và văn hóa trong suốt thời gian, hoàn toàn không học chính trị hay sinh hoạt đảng phái đoàn thể.
Trong khi đó học sinh miền Bắc phải tốn ước chừng khoảng 1/3 thời gian để học tập chính trị từ sơ cấp đến trung cấp Mác Lê ở bậc đại học, xây dựng chủ nghĩa cộng sản khoa học, đây là những môn thi bắt buộc. Ngoài ra còn phải phấn đấu sinh hoạt ngoại khóa trong phong trào, tranh thủ để trở thành cháu ngoan bác Hồ, đối tượng Đoàn, đối tượng Đảng.
Nếu so sánh một cán sự y tế, hay cán sự điều dưỡng miền Nam được đào tạo 3 năm chuyên môn, với trình độ trung học, tổng cọng thời gian học cũng từ 12 năm trở lên ( 9 năm bằng trung học đệ nhất cấp + 3 năm chuyên môn).Nếu căn cứ vào học trình để kết luận, thì người bác sĩ miền Bắc bị nhồi sọ về chính trị Mác Lê hơn miền Nam. Nhưng chuyên môn và văn hóa người bác sỹ miền Bắc chỉ có trình độ tương đương với một người cán sự y tế trung bình mà thôi, không thể so sánh bằng với bác sỹ miền Nam được. (Trước 1975)
3.3.- CÔNG TÁC THỰC TIỄN: Với trình độ chuyên môn như trên, tốt nghiệp loại ưu (Tr.305) chắc là DTT sẽ đạt nhiều thành tích xuất sắc trong hoạt động chuyên môn của mình. Sau đây là những thành tích của một bác sĩ XHCN rất đáng để chúng ta suy gẫm và đánh giá.
08.04.68 (tr.33)
Mỗ một ca ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn, thuốc giảm đau chỉ còn vài ống Novoraine nhưng người thương binh trẻ không hề kêu la một tiếng, anh còn cười để động viên mình, nhìn nụ cười gượng trên môi khô vì mệt nhọc, mình thương anh vô cùng.
Rất đau xót rằng sự nhiễm trùng trong ổ bụng không do ruột thừa vỡ. Tìm kiếm gần một giờ đồng hồ không thấy nguyên nhân đành đóng lại cho đặt dẫn lưu và đổ kháng sinh trong ổ bụng.
Nỗi băn khoăn của một người thầy thuốc cộng nỗi thương xót mến phục người thương binh ấy làm mình không thể yên lòng, vuốt nhẹ mái tóc anh mình muốn nói với anh rằng: với những người như anh mà tôi không cứu chữa được thì đó sẽ là nỗi đau xót khó mà phai đi trong cuộc đời phục vụ của một người thầy thuốc.
Bác sỹ định bệnh sai, đưa đến chết người
22.04.68 (Tr.41)
... Một ngày mệt nhọc vô cùng, ba ca thương nặng vào một lúc, suốt một ngày đứng bên bàn mổ, đầu óc căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột của chú Công (cha Hường) và vì những tin buồn dồn dập ...
DTT là bác sỹ mắt nhưng làm công việc giải phẫu là chính.
20.07.68 (Tr.64)
... Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi người trong bệnh xá đều hết sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình vừa phụ trách bệnh xá vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng vất vả cũng còn nhiều khó khăn trong công việc nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng, sức lực của mình để cống hiến cho cách mạng....
27.08.68 (Tr.75)
Một ca mổ quan trọng đã kết quả. Thận dập nát đã được may lại, máu ngừng chảy nước tiểu người bệnh nhân ấy đã trong lại bình thường. Lẽ ra niềm vui ấy sẽ tràn trề, một mạng người được cứu sống nhưng sao mình rất bình thản trước nụ cười và đôi mắt cảm phục của người bệnh nhân ấy. Một dòng máu ngừng chảy nhưng bao nhiêu dòng máu đã chảy và đang chảy? ...
05.10.68 (Tr.84)
Một ca tử vong sau phẫu thuật cắt đoạn. Đó là một bệnh nhân gần 66 tuổi nhưng sức còn khỏe, đó là một Đảng viên già đã 23 năm trời liên tục chiến đấu. Gia đình và bệnh xá đã tận tình cứu chữa mà cũng không sao cứu thoát cho ông già. Riêng mình dù tập thể và chính bản thân con trai ông già đã xác định và thừa nhận mình không có lỗi mà chỉ có lòng tận tình cứu chữa nhưng mình vẫn xót xa.
Vì sao ông ta chết? Vì kỹ thuật? Cũng không phải tuy là ca đầu tiên cắt cụt nhưng mình vẫn bình tĩnh vẫn đảm bảo thời gian và kỹ thuật. Vậy thì vì sao? Vì không truyền được lọ plasma? Nhưng sự việc này cũng không biết nói sao, cứ truyền vào đúng ven lại trật ra do ông già quẫy cựa. Buồn vô cùng! Một ca tử vong không đáng tử vong mà lại không rút ra được bài học gì đích đáng cả.
Lần đâu tiên giải phẫu cắt cụt, gây chết người, mà không rút ra được bài học nào cả.
24.10.68 (Tr.91)
Một ca mổ cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điều kiện thô sơ mình cũng đã mổ thăm dò nhưng rất tiếc rằng cancer đã sang giai đoạn di căn. Không thể làm gì hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót nhìn người bệnh nhân đi dần đến cái chết....
Lại mổ ung thư, gây chết người.
09.01.69 (Tr.115)
... Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt, em nằm im lìm không rên la, một chân đã bị mìn tiêu cụt tơi tả, máu thấm ướt hết áo quần. Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với tình thương, mình đã cùng các đồng chí hết sức cứa chữa cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: “Bây giờ chắc sống 80% rồi đây“
Riêng mình vẫn lo lắng vì Bốn mất máu quá nhiều, mạch vẫn rất nhanh 140-150 nhưng cũng nhiều hy vọng.
Cuối cùng Bốn đã không vượt qua nổi, máu ra nhiều quá nên em không còn đủ sức. Bốn ơi máu em đã thấm đầy trên mảnh đất quê hương, máu em đã chảy dài trên đường em đi chiến đấu....
Cũng cắt cụt gây chết người
15.03.69 (Tr.133)
Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh, anh bị một vết thương xuyên thấu bụng. Sau cuộc mổ tình trạng không tốt mà xấu đến có lẽ vì một sự chảy máu trong do miến mảnh không tìm thấy cọ xát làm đứt một mạch máu nào đó. Sau hội chẩn, ý kiến chung không đồng ý mổ lại. Riêng mình vẫn băng khoăn lưỡng lự.
Cuối cùng anh đã chết. Cái chết của anh làm mình suy nghĩ đến đau đầu. Anh chết vì sao? Vì sự thiếu cương quyết của mình chăng? Rất có thể là như vậy. Nếu mình kiên quyết, ít ra 100% thì hy vọng cứu sống anh có thể có 10%. Mình đã theo đuôi quần chúng, bỏ qua một việc làm nên làm.”
DTT là người có chuyên môn duy nhất trong bệnh xá mà không có quyền quyết định về chuyên môn bằng lãnh đạo quần chúng? Giá trị của lãnh đạo tập thể?
29.07.69 (Tr.174)
Chiến tranh thật tàn khốc hết mức, sáng nay người ta đem đến cho mình một thương binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy, đến với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi ngút cháy trên người nạn nhân....
Tóm lại DTT là một bác sỹ mắt mà đi làm công việc giải phẫu chửa đủ các loại bịnh theo kiểu “không có chó, bắt mèo ăn cứt” từ cắt cụt chân, mổ ruột thừa, vá thận, mổ ung thư dạ dày, chửa bỏng còn nhiều nữa chưa kể hết trong nhật ký này (?)
Trong hơn một năm làm phẫu thuật, gây chết 5 người mà vẫn được khen tặng như sau:
06.10.68 (Tr.85)
Có những lời nữa đùa nữa thật ghen với tình thương mà mọi người đã giành cho mình. Mình cũng suy nghĩ về những lời đùa đó nhưng suy ra cho cùng đâu phải mọi người thương mình vì hai chữ “Bác sỹ”...
1.11.68 (Tr.92)
Tổng kết năm qua, bệnh xá Đức Phổ được báo cáo điển hình trong toàn tỉnh về thành tích điều trị và các mặt khác, và trong số những người xuất sắc ấy có cả mình. Đó là một thắng lợi chung trong đó có mình một chút.
07.04.1969 (Tr.138)
Được rất nhiều thư, niềm vui tràn ngập thư mẹ, thư em, thư bè bạn từ trên khu, trên tỉnh, trên huyện, dưới xã ai ai cũng gửi đến mình lòng thương mến thiết tha.
Những lời khen ít nhiều cũng làm mình sung sướng: “Thùy Trâm đã được mọi người thương, bạn mến, Đảng tin...”, “Thật là một người trí thức toàn diện...”
Cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm của Nhà xuất bản hội nhà văn được độc giả trong và ngoài nước chú ý, toàn bộ hệ thống báo chí Việt Nam thậm chí cả guồng máy chính quyền đều đề cao tán dương như là một điển hình anh hùng cho thế hệ trẻ Việt Nam, trong lúc đó lại có nhiều tranh cãi tính xác thật của nhật ký trên các diễn đàn BBC, Talawas, Đàn Chim Việt.... Đâu là sự thật? người viết bắt đầu đi tìm nguồn tài liệu ở diễn đàn BBC, mở bài “Không xuyên tạc Nhật Ký Đặng Thùy Trâm” bấm vào tựa bên phải “Nhật ký Đặng Thùy Trâm bản gốc và bản in”. ( có thể trực tiếp vào trang web: http://annonymous.online.fr/Upload/Nhat%20ky%20Dang%20Thuy%20Tram/
Sau cùng, người viết đã có đầy đủ 3 tập tài liệu sau đây:
1)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 1
2)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 2
Hai bản này gọi là bản GỐC (viết tắt BG)
3)- Bản in thực tế của NXB Hội Nhà Văn. Viết tắt nkdtt .
(Chú ý bản in ở trên internet chỉ là những trích đoạn, không có giá trị để đối chiếu)
Mở đầu nhật ký bản in, nhà xuất bản cho biết (tr. 7): Trong quá trình biên soạn và chỉnh lý, chúng tôi cố gắng tôn trọng nguyên bản câu văn cũng như những thói quen dùng từ và ngữ pháp của tác giả - chỉ sửa lại một số từ địa phương hoặc lược bớt những từ trùng lặp..
Theo đài BBC, ông Vương Trí Nhàn, xác nhận ông chỉ tham gia ở khâu cuối cùng và về mặt kỹ thuật nhiều hơn nội dung. Bà Đặng Kim Trâm, em út của bà Đặng Thùy Trâm là người chủ biên, quyết định nội dung phần ra mắt công chúng. Theo ông Nhàn rằng bà Kim Trâm khẳng định bà dám chịu trách nhiệm và không sợ thách thức của dư luận.
Bà Đặng Kim Trâm đã tái xác nhận trong cuộc phỏng vấn với đài BBC ngày 15-10-2005 “ Ban đầu tôi e ngại là các ý nghĩ quá đỏ có thể không phù hợp với giới trẻ bây giờ. Nhưng khi tự tay đánh máy cuốn sách tôi thấy không thể bỏ đi một câu nào....”
Kết quả đối chiếu sau đây đã cho thấy lời nói không đi đôi với việc làm.
2.- ĐỐI CHIẾU:
2.1- BẢN GỐC:
Bản viết tay quyển 1 có 118 trang quyển 2 có 28 trang.
Nhật ký được viết từ ngày 8-4-68 đến ngày 20-6-70. Một ngày viết một đoạn ngắn, nhật ký có được 276 đoạn. Nhật ký bản gốc được trình bày theo thứ tự thời gian và diễn tiến sự việc.
2.2.- BẢN IN của Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn (nkdtt)
Bản in gồm 322 trang... Trang đầu ghi Đặng Kim Trâm chỉnh lý, Vương Trí Nhà giới thiệu. Trang cuối ghi Biên tập : Vương Trí Nhàn. In 20.000 cuốn, Số đăng ký..... cấp ngày 5.7.2005... nộp lưu chiểu quý IV-2005. Không thấy ghi lần tái bản. Như vậy từ khi cuốn sách xuất bản vào tháng 7 cho đến nay khoảng 4 tháng chưa có tái bản lần nào (?).
Cảm nhận đầu tiên khi so sánh, đối chiếu bản in nkdtt với bản gốc, người viết có cảm giác cuốn sách được xuất bản một cách vội vàng phục vụ nhu cầu chính trị hơn là phục vụ độc giả vì rằng trong cuốn sách có những lỗi sơ đẳng nhất là đánh máy lộn ngày tháng hay những đoạn trên đưa xuống đoạn dưới mà người đánh máy biết rõ mà không chịu sửa chữa vì với máy computer hiện nay dùng lệnh cut, past điều chỉnh rất dễ dàng khi người đánh máy bị nhầm lẫn. Nhưng tại sao lại không làm?
2.2.1.- NHẦM LẪN NGÀY THÁNG: Nhiều ngày ghi nhật ký đã bị đổi thay hay sát nhập với nhau nên khó so chiếu với bản gốc.
... 68 là ngày 15-4-68 (bg), 27-7- 68 là 28-7-68 (bg), 19-11-68 là 11-11-68 (bg), 8-3-69 là 3-3-69 (bg), 9-3-69 là 9-3-69 cọng thêm 11-3-69 (bg), 8-1-70 là 3-1-70(bg), ngày 29-3-70 gộp 2 ngày 28-3-70 và 29-3-70 (bg)
2.2.2.- ĐOẠN VĂN BỊ XÁO TRỘN VÀ CẮT XÉN
9-3-69 (tr. 132)
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở đây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.
[(bg) ngày 11-3-69
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở dây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là một người thương binh nặng, bàn tay dập nát mà vẫn cười lạc quan tin tưởng.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.]
2.3.3.- NHỮNG ĐOẠN VĂN BỊ CẮT XÉN
Ngoài những sửa chữa thay đổi vài từ ngữ có tính cách kỹ thuật, người viết tìm thấy có đến 21 đoạn nhật ký bị cắt xén, ảnh hưởng đến nội dung như sau:
2-6-68 Mất đoạn cuối
Tr.53 tiếp theo dòng cuối trang .... đó là một cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng lạc hậu và tiến bộ. [”bg): Tư tưởng lạc hậu là của những người còn mang những tàn dư của tư tưởng phi vô sản và tư tưởng tiến bộ là của những người đang phấn đấu vì sự nghiệp chung. Quy luật đó là lẽ tất nhiên. “]
12-5-69 thiếu đoạn cuối
Tr.151 tiếp câu cuối .... nhưng với anh Long thì đúng như vậy. [(bg) Nằm nói chuyện với anh nghe anh kể về những ngày công tác của anh mình thốt lên “Giá mà em được ở gần anh em sẽ học được bao nhiêu điều hay” được về công tác với anh đó là một mong ước rất thành thực. Nếu vừa rồi không có sự thay đổi trong biên chế chắc điều đó đã thực hiện rồi.]
18-5-69
Tr.152 ... chừng nào ... [ (bg) ... Cả miền Nam đang tấn công, trên suốt dải đất mênh mông này ở đâu lại chẳng có các anh? Đâu chẳng có bàn chân những người trai dũng cảm.
Tôi biết trong các anh có rất nhiều và rất nhiều người quê ngoài XHCN . Các anh có nhiều người cũng mới từ những ngày hòa bình bước vào cảnh lửa đạn này. Hôm nọ, gặp mấy chàng trinh sát trẻ măng nước da trắng dưới lớp lông măng trên má, chắc rằng đó là những học sinh cấp hai mới rời cây bút để nhận khẩu súng lên đường đi chống Mỹ cứu nước.]
.... Vậy đó, cả nước đã lên đường,[ (bg) cả nước đang lăn mình trong cuộc chiến đâu nhất định phải dánh thắng giặc Mỹ xâm lược nhất định phải trả về cho chúng ta những ngày độc lập tự do.]
25-6-69 thiếu 2 câu
tiếp dòng thứ 2 trang 162... như Paven trong trường hợp đó . [(bg) Cuộc chiến này biết mấy gian lao, chúc Th. đứng vững bên cương vị của người Cộng Sản...]
16-7-69 16-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.168...” Lối đó là lối bà già vợ thằng Hùng đó”. [(bg) Ôi! những người dân Việt Nam anh hùng, có lẽ trên trái đất này không ai chịu nhiều khổ đau như mỗi người dân miền Nam anh dũng.]
26-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.172 cuối trang.... mà chị đêm ngày thương nhớ thiết tha. [(bg) Con đường em đi những bước đi còn chập chững nhưng chông gai gian khổ đầy nước mắt. Chúc em đi những bước vững vàng.]
6-8-69 thiếu đoạn cuối
Tr.179 cuối trang.... Chắc không thể có nụ cười và tiếng đàn sôi nổi ấy. [(bg) Ôi! Cuộc cách mạng ở mảnh đất này mới kỳ lạ làm sao, đau thương tang tóc ở đâu bẵng và lạc quan sôi nổi cũng không đâu bằng.]
1-9-69 thiếu đoạn cuối
\
Tr.187 cuối trang .... Không hiểu anh Sơ có biết rằng trong câu gửi gắm ấy có tình người anh lo cho đứa em gái hay không. [(bg) Anh Năm ơi, anh đi bình an nhé, em sẽ đón anh trở về trong niềm vui và tình thương sâu dậm của một đứa em gái.]
1-11-69 thiếu một hàng cuối
Tr.195 ... Anh đi bình an và mau về nghe anh. [(bg) người anh thân thương rất đỗi!]
5-11-69 thiếu đoạn cuối
Tr.196 .... con cháu nheo nhóc ở vào đâu? [(bg) Ôi! Giặc Mỹ chồng bao tội ác của bay đã chất đầy như núi. Còn sống ngày nào tao thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để trả được mối thù vạn kiếp đó.]
26-02-70 Thiếu đoạn cuối
Tr. 228 ... Tình thương của mình bỗng dột xuất mà sôi nổi lạ lùng. [(bg) Tuy nhiên lúc em ra về mình cũng chỉ căn dặn em cảnh giác cố gắng tập cho cánh tay mau bình phục rồi nhìn em bằng đôi mắt trìu mến. Thôi, đi nghe em, chúc em khỏe mau trở về với đội ngũ chiến đấu.]
27-02-70 Thiếu mất hai đoạn
Cuối Tr.228. Phải chăng vì Thuận đã làm được những điều trên?
[(Bg) Tất nhiên trong bước đường đi không ai không vấp phải khuyết điểm. Mình không hề sợ khuyết điểm, cái gì sai thì cố gắng khắc phục, cái gì đúng cố gắng phát huy không theo đuôi quần chúng, không độc đoán quan liêu, không vì sợ mất lòng mà bỏ nguyên tắc. Trước khi làm một việc gì phải cân nhắc kỹ không hướng mình đang đứng trong vai trò của một diễn viên trên sân khấu bao nhiêu đôi mắt khán giả đang nhìn, mình làm được điều đó là dĩ nhiên vì mình là một diễn viên, họ chỉ khen khi nào mình thật xuất sắc (mà điều đó thì mình chưa thể làm được). Nếu mình làm còn thiếu sót họ sẽ chê, chê nhiều, vậy mà cũng đòi làm diễn viên, dở quá vv và vv...]
Tr. 229 Bao nhiêu năm thoát ly vào sinh ra tử trên chiến trường miền Nam bây giờ lại để nó chỉ huy!...”
[(bg) Không các đồng chí ơi!, tôi làm việc cũng chỉ vì sự nghiệp của cách mang, Đảng giao phó cho tôi, nhưng trách nhiệm quan trọng cũng chỉ vì Đảng muốn tận dụng hết khả năng sức lực của tôi để phục vụ cho Đảng nhiều nhất. Tôi vinh dự vì được tin cậy nhưng không vì vậy mà tôi kiêu căng. Tôi hiểu lắm chứ tuy rằng được học tập trang bị nhiều lý luận trong nhiều năm trên ghế nhà trường nhưng có nhà trường nào lớn bằng trường đại học thực tế đâu? Tôi mới vào đây 3 năm dĩ nhiên không thể bằng những đồng chí đã trải qua 10 năm, 20 năm trên chiến trường gian khổ, cho nên hãy đến với tôi bằng tình thân của những người cùng chung giọt máu để đổ xuống cho đất nước tự do, bằng tình thương của những kẽ xa nhà lấy gia đình cách mạng làm chỗ dựa duy nhất trong cuộc sống. Hãy chỉ bảo giúp đỡ tôi để tôi trở thành một đồng chí phục vụ đắc lực cho Đảng. Phần tôi, tôi tự biết tôi phải làm gì, tự biết năng lực của mình và tự nhủ mình phải khiêm tốn học hỏi thật nhiều mọi người xung quanh.]
8-3-70 thiếu một câu cuối
Tr.233 Phải như Paven, như Ruồi Trâu, hay như M của mình đó. [(bg) Nhất định phải vậy nghe Th.!]
30-3-70 thiếu câu cuối
Tr. 237 ... hãy mạnh dạn mà đi, vững bước mà đi nghe. [(bg) người con gái XHCN trên đất miền Nam ]
5-5-70 thiếu hai đoạn
Tr.241 Nhưng tao đã thề cùng các đồng chí của tao rồi, dù có chết cũng quyết đánh cho đến cùng [ (bg) để đánh giập đầu con rắn độc hiếu chiến].
Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột. Tại sao cũng là con người mà lại có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng bào để làm nước tưới cho gốc cây vàng của nó như vậy.
[(bg) bao nhiêu cũng không đủ túi tham, bao nhiêu cũng không thỏa mãn cái cuồng vọng của bọn quỷ khát máu.]
13-5-70 Thiếu đoạn cuối
Tr.243 những dòng chữ của mình vẫn theo em trên khắp chặng đường chiến đấu. [(bg) Em ơi, hãy bồi đắp cho tình cảm chị em mãi mãi thắm thiết như ngày xưa ta sống cùng nhau trên quê hương Phổ Hiệp. Thực ra trong những ngày qua cũng có đôi nét mờ đi trong bức tranh tuyệt đẹp của mối tình cảm ấy vì không biết giữ gìn, lỗi đó ở em hay ở mình.]
19-5-70 Thiếu đoạn cuối.
Tr.246 Vậy ra anh cũng hiểu mình đấy chứ. [(bg) nhưng tại sao vậy hở anh? Tại sao nỗi lo cho mình trước lúc ra đi “là điều lo anh để lên hàng đầu” mà anh lại cũng làm thinh không nói? Tại sao lúc chưa gặp anh mong chờ da diết mà lúc em đến anh lại cũng làm thinh? Ôi người anh thân thiết, anh rất gần mà lại cũng rất xa. Em hiểu anh hết mà rồi lại cũng không hiểu hết (mà chính anh cũng thắc mắc với anh nữa kia mà!) Sao vậy hở anh? ]
4-6-70 thiếu đoạn cuối
Cuối Tr. 247. vì sao ta không thể đến với nhau trong mối quan hệ tốt đẹp và chính đáng đó?
[(bg) Cách mạng miền Nam ! Nhiều cái anh hùng, nhiều chuyện lịch sử mà cũng còn nhiều phức tạp, nhiều rác rưởi trong xã hội, cũng dễ hiểu thôi, vì tất cả cho sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước nên ta chưa thể tập trung sức lực để xây dựng con người XHCN, những con người toàn diện, biết sống vì mọi người, biết cách ăn ở và nếp sống có văn hóa.]
2.2.5.- CHÍN NGÀY BỎ SÓT
10-11-68 :
[(bg) Những hoạt động xã hội ngày một mở rộng đối với mình. Đại hội phụ nữ tỉnh mời dự, hội thanh niên giải phóng mời dự nhưng mình không có điều kiện tham gia. Trong cách bố trí sắp xếp kể ra cũng có những điều kiện chưa hợp lý. Một lần nữa mình hiểu thêm về lòng ghen tỵ của người đời, vẫn còn những người không vui khi thấy đồng chí mình tiến lên.
Những phút giây lịch sử trong tình chị em, trong đời người. Hãy nhớ trọn đời nghe em!]
7-12-1968
[(bg) Gặp Thường, rất lâu rồi mới được ngồi bên em nói chuyện cùng em như những ngày công tác dưới đồng bằng. Một năm qua trong xa cách, chị vui sướng thấy rằng mỗi chị em mình đều bước đi những bước trưởng thành và tình chị em cũng đã lớn lên dày dạn với thời gian. Vũng vàng trước sóng gió. Hãy vun xới cho tình cảm ấy lớn lên và lớn mãi lên nghe em!]
23-5-69
[(bg) Về công tác Phổ Cường. Đêm mờ biết bao ở nhà chị Hạnh: “Không bao giờ tự cầm dao cứa đứt mạch máu trong cơ thể mình” Không, thực tế thì có vậy nhưng em thì không có. ]
26-10-69
[(bg) Những ngày sống bên anh có cái gì làm mình cảm thấy quên đi những ngày gian khổ đang đe dọa bên mình. Có phải vì bàn tay ấm áp của anh đã nắm chặt tay mình truyền cho mình sức mạnh để đánh bạt mọi gian khổ hay không? Có phải những ngón tay nhỏ nhắn của anh đã vuốt trên mái tóc mình thân thiết truyền cho mình tình thương ruột thịt làm mình quên đi cái cô đơn của một kẽ xa nhà? Và có phải đôi mắt đen anh đã nhìn mình qua bóng đem và qua cả những phút giây ngắn ngủi giữa mọi người đã nói với mình rằng: “Hãy vững bước nghe em, trên con đường gian khổ nhưng vinh quang mà em đã chọn, bao giờ cũng có các anh giúp đỡ em với tình đồng chí và có anh dìu dắt em trong cánh tay của một người anh”
Cảm ơn anh nghe anh, em sẽ sống xứng đáng làm một đứa em và một người đồng chí của anh, có nghe em nói không hở anh Năm thân thương của em?]
19-01-70
[(bg) Cám ơn anh, người đồng chí thân thương. Anh đã đến với em bằng tình thương chân thành ruột thịt, anh đã là một chỗ dưa trong cuộc sống của em. Cuộc đời thật phức tạp, không biết ở sao cho vừa lòng tất cả được, cũng như anh đã nói: “Đó là lẽ dĩ nhiên, em không bao giờ bi quan khi gặp trở ngại trong bước đường đi lên của mình”. Như bao lần em đã nói cuộc sống là một bức tranh đủ màu sắc, bên cái màu chủ đạo là màu đỏ chiến thắng và mà xanh ước mơ vẫn có thêm màu đen trong tóc màu xám lạnh lùng nham hiểm. Dù sao em cũng vẫn yêu cuộc sống, cuộc sống của những người cách mạng tha thiết tình thương và cháy bỏng niềm tin vào sức mạnh của mình. Anh Năm thân thương, anh tin em chứ? Tin ở đứa em gái của anh nghe anh.]
15-02-70
[(bg) Những ngày sống bên anh, sung sướng cảm thấy tình anh em ngày thêm gắn bó trưởng thành. Em tin anh như tin chính bản thân em. niềm tin ấy giúp em đi lên, đạp bằng mọi chông gai trở lực vươn lên làm chủ cuộc sống của mình. Sung sướng biết bao khi trong bước đi gian khổ, luôn có anh dìu dắt, anh lo cho em từng ly từng tý, anh dạy bảo em với tình một người anh trai với đứa em gái, anh xây dựng cho em với trách nhiệm một bí thư huyện ủy với một đồng chí mới làm công tác Đảng, anh săn sóc em với tình đồng đội cùng chung trong cuộc chiến đấu sinh tử này. Hãy giữ tròn mãi mãi “...trong ngần thiết tha” nghe anh Năm!]
24-3-70
[(bg) Đọc những lá thư của anh càng hiểu càng thương anh vô cùng, anh Năm ạ. Quả thực anh đã lo, đã thương em với tình thương sắt son ruột thịt, anh em ta thường nói với nhau rằng: Dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ trọn tình anh em thủy chung như nhau. Đâu có phải em không tin anh, em thường nói với chính em rằng em tin anh như tin bản thân mình nhưng ngay cả bản thân mình em cũng nhiều lúc không hiểu rằng xử trí như vậy đã đúng chưa. Vì vậy anh đừng trách khi em giận anh. Thực ra cũng có một tình thương sâu đậm nên em mới cảm thấy giận anh, nếu không, một lá thư như vậy, những câu nói như vậy hết sức bình thường với những người khác nhưng với em lại là khác, em đòi hỏi ở anh một sự quan tâm, đòi hỏi ở anh những biểu hiện của một tình thương đằm thắm trong sạch của một người anh trai với đứa em gái cưng của anh. Đòi hỏi ấy có cao không nhỉ? “Anh đã dành tất cả tình thương duy nhất, độc nhất cho em gái anh” Thì như vậy đâu phải là cao. Vậy đó anh à, hãy hiểu em nhiều hơn nữa nghe anh, hiểu cái đứa em gái có trái tim đầy nhiệt tình, đầy ưu ái, niềm tin ở cuộc đời. Em còn dại lắm, em tin người ta dễ dàng mà cuộc đời lại chưa phải đáng để tin như vậy. Mong anh sẽ là người dìu dắt em đi vững bước một trên con đường chông gai nguy hiểm nhưng rất đỗi vinh quang mà anh em mình đã chọn.]
01-4-70
[(bg) Kỷ niệm 10 năm ngày vào Đoàn, 10 năm qua từ một thiếu niên bây giờ Th. đã là một cán bộ dày dạn trong khói lửa. Th. không thể tự hào mà chỉ thấy rằng mình đã làm đúng như lời thề dưới cờ Đoàn trong ngày hôm ấy.
Những đêm dài suy nghĩ, Th. ơi, hãy nghiêm khắc với bản thân hơn nữa, đừng để một câu hỏi làm đau nhói trong Th. Tại sao mọi người không hiểu Th? Mà hãy hỏi: Tại sao Th. lại để mọi người không hiểu mình? Đành rằng có những người không tốt: nhỏ mọn, ghen tuông, kèn cựa nhưng dù họ với tính cách như vậy vẫn có một số người họ không thể nói được. Vậy thì hãy làm như những người đó. Đừng khóc Th. ơi, nước mắt hãy giành cho ngày gặp mặt những người thân yêu. Đêm khuya nằm bên những người đồng đội, họ đã ngủ, hơi thở đều đều, ngoài kia từng tràng pháo nổ dậy trời. Ơi những người đồng chí của tôi, ta đang cùng chung hơi thở giữa chiến trường lửa khói, hãy thương yêu đùm bọc lấy nhau, sống chết kề một bên, ghen tuông kìn cựa để làm gì?]
05-4-70
[(bg) Có phải mình cô đơn mà cảm thấy nhớ thương đến vô cùng hay không hở người anh thân thiết của em? Chiều nay Cúc lên đường về cơ quan phục vụ, bỗng nhiên nỗi buồn nhớ như tăng lên bội phần. Cuộc sống sao mà phức tạp mà sao mình lại làm một con bé sống với trái tim giàu tình cảm như thế này? Tại sao ư? Vì từ nhỏ đến giờ nó là như vậy. Nghe những ý kiến của chị Hạnh cảm thấy buồn lạ lùng. Con người vẫn có những kẻ sống với tầm mắt nhỏ hẹp, họ không thể có được những tình cảm trong sáng chân thành như một số người khác. Với họ chỉ có vật chất, chỉ có xác thịt!! Ôi ghê tởm làm sao. Anh trai của em ơi, có đúng như lời anh đã nói đó không? “Tình anh em ta sẽ tồn tại mãi mãi dù thời gian, không gian biến động thế nào” nghĩa là ta sẽ đàng hoàng thanh bạch mà sống, đạp qua mọi rác rưởi gai góc cản trở đường đi của ta. Em cũng sẽ làm như anh, sẽ thực hiện đúng như lời em đã hứa cùng anh.]
3.- TÁC GIẢ:
Bàn về một tác phẩm mà không tìm hiểu tác giả là một điều thiếu sót không thể tha thứ được cho dù người đó đã nằm xuống. Trong bản gốc của nhật ký không có ghi tiểu sử của tác giả, nhưng theo lời kể của gia đình và nhân chứng trong sách in có thể sơ lượt như sau:
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942
1960-1961: Học sinh lớp 10C trường trung học Chu Văn An Hà Nội.
Năm 1966: Tốt nghiệp bác sĩ mắt Đại học y khoa Hà Nội (?)loại ưu.
Năm 1967: Vào Nam chiến đấu, phụ trách một trạm xá nhỏ ở Đức Phổ Quảng Ngãi.
Chết lúc 17g20 ngày 22-6-1970.
Nhiều người đã đặt nhiều nghi vấn về chức danh bác sỹ của DTT, bởi nguyên do thời gian theo học đại học y khoa khá ngắn ngủi(?)vì vậy người viết phải làm cuộc so sánh như sau:
3.1.- THỜI GIAN: Trước 1975 tại miền Bắc, hệ giáo dục trung học là 10 năm. Đào tạo bác sĩ chỉ có 5 năm (?).Trong khi ở miền Nam hệ trung học là 12 năm, và đại học y khoa thường là 7 năm.
Như vậy ở miền Bắc, một người bác sĩ chỉ mất 15 năm học ở nhà trường. Ở miền Nam phải mất 19 năm.
3.2.- HỌC TRÌNH: Học sinh Miền Nam chỉ thuần túy học về chuyên môn và văn hóa trong suốt thời gian, hoàn toàn không học chính trị hay sinh hoạt đảng phái đoàn thể.
Trong khi đó học sinh miền Bắc phải tốn ước chừng khoảng 1/3 thời gian để học tập chính trị từ sơ cấp đến trung cấp Mác Lê ở bậc đại học, xây dựng chủ nghĩa cộng sản khoa học, đây là những môn thi bắt buộc. Ngoài ra còn phải phấn đấu sinh hoạt ngoại khóa trong phong trào, tranh thủ để trở thành cháu ngoan bác Hồ, đối tượng Đoàn, đối tượng Đảng.
Nếu so sánh một cán sự y tế, hay cán sự điều dưỡng miền Nam được đào tạo 3 năm chuyên môn, với trình độ trung học, tổng cọng thời gian học cũng từ 12 năm trở lên ( 9 năm bằng trung học đệ nhất cấp + 3 năm chuyên môn).Nếu căn cứ vào học trình để kết luận, thì người bác sĩ miền Bắc bị nhồi sọ về chính trị Mác Lê hơn miền Nam. Nhưng chuyên môn và văn hóa người bác sỹ miền Bắc chỉ có trình độ tương đương với một người cán sự y tế trung bình mà thôi, không thể so sánh bằng với bác sỹ miền Nam được. (Trước 1975)
3.3.- CÔNG TÁC THỰC TIỄN: Với trình độ chuyên môn như trên, tốt nghiệp loại ưu (Tr.305) chắc là DTT sẽ đạt nhiều thành tích xuất sắc trong hoạt động chuyên môn của mình. Sau đây là những thành tích của một bác sĩ XHCN rất đáng để chúng ta suy gẫm và đánh giá.
08.04.68 (tr.33)
Mỗ một ca ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn, thuốc giảm đau chỉ còn vài ống Novoraine nhưng người thương binh trẻ không hề kêu la một tiếng, anh còn cười để động viên mình, nhìn nụ cười gượng trên môi khô vì mệt nhọc, mình thương anh vô cùng.
Rất đau xót rằng sự nhiễm trùng trong ổ bụng không do ruột thừa vỡ. Tìm kiếm gần một giờ đồng hồ không thấy nguyên nhân đành đóng lại cho đặt dẫn lưu và đổ kháng sinh trong ổ bụng.
Nỗi băn khoăn của một người thầy thuốc cộng nỗi thương xót mến phục người thương binh ấy làm mình không thể yên lòng, vuốt nhẹ mái tóc anh mình muốn nói với anh rằng: với những người như anh mà tôi không cứu chữa được thì đó sẽ là nỗi đau xót khó mà phai đi trong cuộc đời phục vụ của một người thầy thuốc.
Bác sỹ định bệnh sai, đưa đến chết người
22.04.68 (Tr.41)
... Một ngày mệt nhọc vô cùng, ba ca thương nặng vào một lúc, suốt một ngày đứng bên bàn mổ, đầu óc căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột của chú Công (cha Hường) và vì những tin buồn dồn dập ...
DTT là bác sỹ mắt nhưng làm công việc giải phẫu là chính.
20.07.68 (Tr.64)
... Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi người trong bệnh xá đều hết sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình vừa phụ trách bệnh xá vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng vất vả cũng còn nhiều khó khăn trong công việc nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng, sức lực của mình để cống hiến cho cách mạng....
27.08.68 (Tr.75)
Một ca mổ quan trọng đã kết quả. Thận dập nát đã được may lại, máu ngừng chảy nước tiểu người bệnh nhân ấy đã trong lại bình thường. Lẽ ra niềm vui ấy sẽ tràn trề, một mạng người được cứu sống nhưng sao mình rất bình thản trước nụ cười và đôi mắt cảm phục của người bệnh nhân ấy. Một dòng máu ngừng chảy nhưng bao nhiêu dòng máu đã chảy và đang chảy? ...
05.10.68 (Tr.84)
Một ca tử vong sau phẫu thuật cắt đoạn. Đó là một bệnh nhân gần 66 tuổi nhưng sức còn khỏe, đó là một Đảng viên già đã 23 năm trời liên tục chiến đấu. Gia đình và bệnh xá đã tận tình cứu chữa mà cũng không sao cứu thoát cho ông già. Riêng mình dù tập thể và chính bản thân con trai ông già đã xác định và thừa nhận mình không có lỗi mà chỉ có lòng tận tình cứu chữa nhưng mình vẫn xót xa.
Vì sao ông ta chết? Vì kỹ thuật? Cũng không phải tuy là ca đầu tiên cắt cụt nhưng mình vẫn bình tĩnh vẫn đảm bảo thời gian và kỹ thuật. Vậy thì vì sao? Vì không truyền được lọ plasma? Nhưng sự việc này cũng không biết nói sao, cứ truyền vào đúng ven lại trật ra do ông già quẫy cựa. Buồn vô cùng! Một ca tử vong không đáng tử vong mà lại không rút ra được bài học gì đích đáng cả.
Lần đâu tiên giải phẫu cắt cụt, gây chết người, mà không rút ra được bài học nào cả.
24.10.68 (Tr.91)
Một ca mổ cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điều kiện thô sơ mình cũng đã mổ thăm dò nhưng rất tiếc rằng cancer đã sang giai đoạn di căn. Không thể làm gì hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót nhìn người bệnh nhân đi dần đến cái chết....
Lại mổ ung thư, gây chết người.
09.01.69 (Tr.115)
... Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt, em nằm im lìm không rên la, một chân đã bị mìn tiêu cụt tơi tả, máu thấm ướt hết áo quần. Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với tình thương, mình đã cùng các đồng chí hết sức cứa chữa cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: “Bây giờ chắc sống 80% rồi đây“
Riêng mình vẫn lo lắng vì Bốn mất máu quá nhiều, mạch vẫn rất nhanh 140-150 nhưng cũng nhiều hy vọng.
Cuối cùng Bốn đã không vượt qua nổi, máu ra nhiều quá nên em không còn đủ sức. Bốn ơi máu em đã thấm đầy trên mảnh đất quê hương, máu em đã chảy dài trên đường em đi chiến đấu....
Cũng cắt cụt gây chết người
15.03.69 (Tr.133)
Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh, anh bị một vết thương xuyên thấu bụng. Sau cuộc mổ tình trạng không tốt mà xấu đến có lẽ vì một sự chảy máu trong do miến mảnh không tìm thấy cọ xát làm đứt một mạch máu nào đó. Sau hội chẩn, ý kiến chung không đồng ý mổ lại. Riêng mình vẫn băng khoăn lưỡng lự.
Cuối cùng anh đã chết. Cái chết của anh làm mình suy nghĩ đến đau đầu. Anh chết vì sao? Vì sự thiếu cương quyết của mình chăng? Rất có thể là như vậy. Nếu mình kiên quyết, ít ra 100% thì hy vọng cứu sống anh có thể có 10%. Mình đã theo đuôi quần chúng, bỏ qua một việc làm nên làm.”
DTT là người có chuyên môn duy nhất trong bệnh xá mà không có quyền quyết định về chuyên môn bằng lãnh đạo quần chúng? Giá trị của lãnh đạo tập thể?
29.07.69 (Tr.174)
Chiến tranh thật tàn khốc hết mức, sáng nay người ta đem đến cho mình một thương binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy, đến với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi ngút cháy trên người nạn nhân....
Tóm lại DTT là một bác sỹ mắt mà đi làm công việc giải phẫu chửa đủ các loại bịnh theo kiểu “không có chó, bắt mèo ăn cứt” từ cắt cụt chân, mổ ruột thừa, vá thận, mổ ung thư dạ dày, chửa bỏng còn nhiều nữa chưa kể hết trong nhật ký này (?)
Trong hơn một năm làm phẫu thuật, gây chết 5 người mà vẫn được khen tặng như sau:
06.10.68 (Tr.85)
Có những lời nữa đùa nữa thật ghen với tình thương mà mọi người đã giành cho mình. Mình cũng suy nghĩ về những lời đùa đó nhưng suy ra cho cùng đâu phải mọi người thương mình vì hai chữ “Bác sỹ”...
1.11.68 (Tr.92)
Tổng kết năm qua, bệnh xá Đức Phổ được báo cáo điển hình trong toàn tỉnh về thành tích điều trị và các mặt khác, và trong số những người xuất sắc ấy có cả mình. Đó là một thắng lợi chung trong đó có mình một chút.
07.04.1969 (Tr.138)
Được rất nhiều thư, niềm vui tràn ngập thư mẹ, thư em, thư bè bạn từ trên khu, trên tỉnh, trên huyện, dưới xã ai ai cũng gửi đến mình lòng thương mến thiết tha.
Những lời khen ít nhiều cũng làm mình sung sướng: “Thùy Trâm đã được mọi người thương, bạn mến, Đảng tin...”, “Thật là một người trí thức toàn diện...”
Không biết bao nhiêu lần mình tự hỏi phải làm gì đây để xứng đáng với lòng tin của mọi người.
Đây là niềm hãnh diện của Đặng Thùy Trâm, người trí thức XHCN toàn diện(?)
Với thành tích trên đã khơi động sự tò mò của người viết phải đi tìm lại dấu tích con đường học vấn của tác giả. Qua lời kể bà mẹ DTT:
Bà cụ nói: “Gia đình không tưởng tượng được là ngay ở Đức Phổ, Quảng Ngãi mà Thùy còn gây dựng được một vườn thuốc và người dân vẫn giữ gìn đến tận bây giờ”. Chị Kim Trâm tiếp lời: “Vốn kiến thức về dược liệu mà chị Thùy có đấy là được mẹ truyền cho từ ngày còn nhỏ. Trường y đâu có dạy chị về dược liệu, nhất là thuốc nam. Hồi bé, chúng tôi ở với cha mẹ ngay trong khu tập thể Bộ Y tế, đằng sau là một vườn thực vật rộng mênh mông. Ngoài giờ học và làm việc nhà, mấy chị em toàn chạy vào vườn thuốc chơi.
Chúng tôi lấy những lá chuối to che lại làm lều, “cắm trại” ngay trong vườn thuốc, trò chơi yêu thích nhất của chúng tôi là “đố cây đố lá”, lá này của cây gì, dùng để làm gì. Không biết thì về hỏi mẹ. Cứ như thế mà chúng tôi biết được tên gọi và công dụng của các cây thuốc trong vườn”.
Bà cụ lại tiếp: “Thùy nó học nhiều hơn ở cha. Thùy học chuyên khoa mắt, không học ngoại, nhưng hằng ngày sau khi học ở trường y về Thùy vẫn đến bệnh viện của cha để theo dõi cha mổ, để học thêm những kinh nghiệm điều trị của cha. Tối đến, hay vào các ngày nghỉ, hai cha con lại say sưa cùng nhau vẽ. Ông ấy không dạy Thùy vẽ tranh phong cảnh mà dạy con vẽ người trên các bức hình giải phẫu. Ông ấy vẽ đẹp lắm, Thùy nhờ cha cũng vẽ rất khá, và cũng từ các bức vẽ “anatomie” ấy, cùng với những lần theo cha đi trực giải phẫu mà sau này khi vào chiến trường, nó có thể bắt tay làm phẫu thuật thương binh được, dù học chuyên khoa mắt”. (Báo Tuổi trẻ 4-8-2005 bài ngọn nến vẫn cháy mãi)
Tóm lại DTT học tây y chuyên khoa mắt, nhưng ra làm chuyên viên giải phẫu đủ các loại bệnh và chữa trị bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn, chẳng khác gì các thầy thuốc lang băm. Một kỷ lục đáng hãnh diện ghi vào lịch sử phát triển y tế CNXH Việt Nam(?)
Đọc tiếp nhật ký (tr.314-315) “ Ai biết liệt sĩ Đặng Thùy Trâm? ... Chúng tôi đã hỏi trường Đại học Y khoa. Sở Lao động Thương binh-Xã hội, hỏi Ban liên lạc họ Đặng Việt Nam, đến cả Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam cũng không ai biết”.
DTT tốt nghiệp loại ưu là một vinh dự cho nhà trường và gia đình tại sao không có tên trong danh sách tốt nghiệp? Tại sao gia đình không có giữ một bằng chứng nào như văn bằng tốt nghiệp, hình ảnh lễ mãn khóa, tiệc mừng gia đình lúc DTT tốt nghiệp? Trong khi gia đình vẫn còn giữ hình ảnh những ngày cuối cùng trước khi vào Nam chiến đấu. Điều này chứng tỏ DTT không có làm lễ mãn khóa ra trường, không có đem văn bằng tốt nghiệp về cho gia đình lưu giữ (?)Chỉ có một câu trả lời hợp lý là DTT chưa bao giờ tốt nghiệp đại học y khoa. và DTT đã khai man lý lịch trước khi vào Nam chiến đấu?
Hãy nghe lời nhân chứng trong nkdtt (tr.319) lời của ông Ngô Sơn Huy (nguyên phó hiệu trưởng trường PTDL Đinh Tiên Hoàng) là bạn thân của Đặng Thùy Trâm như sau: “ Qua lời Trâm kể, tôi biết Trâm được tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội sớm một năm để đi chiến trường.”
Tại sao DTT lại tốt nghiệp sớm một năm? Theo thông lệ miền Nam sinh viên ra trường sớm hơn học trình đào tạo chỉ rơi vào những trường hợp học kém hay bị kỷ luật bị sa thải mà thôi. Sinh viên ở miền Bắc thì sao? chắc không ra ngoài thông lệ đó?
Hãy nghe DTT tự thú trong nhật ký:
23-07-69 (Tr.170)
Một chiếc bật lửa Mỹ có khắc tên mình cạnh tên người đồng chí thân yêu. Anh Đáo đưa nó cho mình và hỏi ai khắc. Mình cười vô tư rồi trả lại anh nhưng lúc ra về mình cảm thấy nao nao. M. ơi! Anh khắc tên em cạnh anh vì sao? Vì những ngày xưa thơ mộng vì tình thương yêu đằm thắm nơi anh vẫn còn hay vì đó là một động tác bình thường của anh? Thực ra không ai làm việc gì mà không có ý nghĩ. M. lại càng không phải là loại người như vậy nhưng M. ơi, anh hãy nói đi anh, vì sao anh khắc tên em bên cạnh tên người bộ đội giải phóng quân mà anh thường nói rằng không phù hợp với cô sinh viên y khoa ấy?
M là người yêu của DTT từ 8 năm trước, vẫn xem DTT là một sinh viên y khoa dù DTT đã làm việc với chức danh bác sĩ đã 3 năm qua, đây là điều nghịch lý trong nhật ký. Chỉ có thể lý giải một điều bí mật chỉ có giữa M. và DTT biết rất rõ mà thôi đó là : DTT là một sinh viên y khoa và chưa bao giờ tốt nghiệp và mãi mãi vẫn là một sinh viên y khoa trong lòng M. DTT đã chấp nhận sự thật đó! DTT không hề phản kháng hay hờn giận.
4.- NHỮNG NGHI VẤN XUNG QUANH CUỐN NHẬT KÝ:
Đây là phần nội dung biên soạn trong sách in do những người chỉnh lý biên soạn và nhân chứng liên quan hoàn toàn không có trong bản gốc nhật ký.
4.1 NGƯỜI LƯU GIỮ NHẬT KÝ:
Câu chuyện xuất phát từ ông tiến sĩ FREDERIC WHITEHURST, 35 năm về trước là một người lính trinh sát Hoa Kỳ có lưu giữ hai tập nhật ký của ĐTT, và ông đã có ý định tìm lại gia đình DTT để tính đến chuyện xuất bản tập nhật ký trên, phần sau là một trong những thư trao đổi đầu tiên giữa ông Frederic Whithurs với gia đình DTT.
Chủ nhật, 1.5.2005
Thưa bà Trâm,
Tôi mong rằng lá thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin đó là cái chết của con gái bà. Tôi ngồi chờ một trận đánh cùng một quân đoàn Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh trong quá khứ.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí và họ chỉ cần tích tắc để chặn một tay súng lại. Khi thấy bị bắn tiếp lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy rằng người đó chết trong khi bảo vệ các bệnh nhân của một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu SKS và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Di sản của DDT-Talawas)
Bức thư trên đã được chỉnh lý sửa đổi. Người biên tập đã ngang nhiên sửa đổi nội dung thư từ riêng của một luật sư tiến sĩ (có sự đồng ý của tác giả bức thư không?) đây là một điều xúc phạm nặng nề, khó chấp nhận được. Sau đây là bức thư bị sửa đổi:
20g27, chủ nhật 1-5-2005
Thưa bà Trâm.
Tôi mong rằng thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin: đó là trường hợp hi sinh của con gái bà. Tôi đang ngồi chờ một trận đánh cùng một đơn vị lính Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh đã từng tham dự.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị của anh ta gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh ta gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có một người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn hãy đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi đầu hàng là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy người đó đang bảo vệ các bệnh nhân trong một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu CKC và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Tr.259)
Phải chăng ông Fred sợ rằng gia đình không tin câu chuyện kể của mình , nên ông Fred đã cẩn thận nhấn mạnh lần thứ hai qua bức sau:
9g44, thứ hai, 2-5-2005.
Thưa bà Trâm.
Và giờ đây thắc mắc của tôi đã được giải đáp. Trận đánh mà người lính nọ tả lại cho tôi đúng là điều đã xảy ra. Con gái bà đã một mình chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo vệ các bạn mình.
Ở bất cứ đất nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là ANH HÙNG và những người anh hùng đều được tất cả mọi người tôn kính, dù người đó là đàn ông hay đàn bà. Thế giới phải được biết về sự dũng cảm của con gái bà và mãi mãi học hỏi được điều gì đó từ tình yêu và những suy nghĩ của chị. Fred (tr. 261)
Thưa ông tiến sỹ Frederic Whithurs qua nội dung bức thư tự giới thiệu:
Thứ Ba, 3.5.2005
Hiền và Hồ thân mến,
.... Khi trở về nhà sau chiến tranh, thân thể tôi chỉ bị thương chút ít nhưng trái tim tôi bị tổn thương. Ngay sau khi trở về tôi quay lại trường đại học và tiếp tục học môn hóa. Học xong đại học tôi tiếp tục làm tiến sĩ về hóa học ở đại học Duke trong năm năm rưỡi. Tôi nhớ đó là một thời gian rất khó khăn. Khi làm luận án tiến sĩ tôi cần có người tài trợ, và giáo sư hướng dẫn của tôi chọn người tài trợ là quân đội Mỹ.
Nhưng họ muốn tôi nghiên cứu về các vật liệu có chứa phốt-pho. Những nghiên cứu như thế có thể giúp phát triển một cuộc chiến tranh khí hóa học. Tôi tức giận từ chối và nói với giáo sư là tôi sẽ thôi không nghiên cứu nữa. Tôi sẽ không để cho người ta sử dụng mình để giết người một lần nữa. Giáo sư nói với tôi rằng một ngày kia tôi sẽ hiểu bất cứ điều gì do con người sáng tạo ra sẽ có một kẻ tìm cách sử dụng nó với những mục đích hủy hoại, đồng thời sẽ có người khác tìm cách sử dụng nó với mục đích tốt đẹp. Dẫu thế tôi vẫn từ chối và cuối cùng đề tài nghiên cứu của tôi là hóa học các-bon. Sau khi nhận được bằng tiến sĩ hóa học vào năm 1980 tôi tới Texas để tiếp tục học tập và nghiên cứu, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận thấy không thỏa mãn. Vậy là tôi lại làm việc cho chính phủ Mỹ một lần nữa và trở thành một nhân viên của FBI. Suốt bốn năm, mặc dù là tiến sĩ hóa học nhưng tôi lại làm một thám tử đặc biệt của FBI chuyên điều tra các vụ cướp nhà băng, bắt cóc trẻ em, các vụ ma túy có liên quan đến heroin, cần sa, cocain và các chất gây nghiện khác. Sau đó tôi chuyển tới làm ở một phòng thí nghiệm về các tội phạm hình sự của FBI, Washington D.C. Chính ở đó tôi đã trở nên nổi tiếng cả ở trong nước lẫn quốc tế. Các bạn thử gõ tên tôi trên Internet và xem người ta đã viết những gì. Cuối cùng tôi đã kiện Tổng thống Mỹ, Tổng Luật sư, Giám đốc FBI, Cơ quan FBI, Bộ Tư pháp Mỹ và Chính phủ Mỹ.Đó là cả một câu chuyện dài về một người đàn ông không làm ngơ trước những sai trái.Năm 1998, sau khi thắng tất cả các vụ kiện, tôi về hưu sớm, quay về sống ở cái xóm nhỏ Bethel để tiếp tục công việc và chăm sóc cha mẹ tôi.Năm 2000 cha tôi qua đời nhưng mẹ tôi còn sống và là một kho báu đối với gia đình tôi cũng như đối với tôi.Vì tôi có học luật trong những năm từ 1992 đến 1996 ở Đại học Georgetown ở Washington DC cho nên từ khoảng hai năm rưỡi nay tôi bắt đầu hành nghề luật. ... Fred (Di sản DTT - Talawas)
Ông là người có nhiều kinh nghiệm thực tế và kiến thức uyên bác như trên thì tôi không nghĩ là ông không biết (trừ phi ông cố tình không muốn biết) câu chuyên của người lính vô danh cách đây 35 năm chỉ là DỐI TRÁ, là HƯ CẤU. Thế mà ông vẫn cố tình tin là sự thật(?)để tạo dựng nên một mẫu anh hùng ĐẶNG THÙY TRÂM thì người viết đành phải đặt nghi vấn về sự trong sáng của cá nhân ông trong công việc lưu trữ nhật ký này bởi những nghịch lý sơ đẳng như sau:
4.1.1.- Quân số và đơn vị: Trước 1975 hệ thống binh quyền của lính Mỹ và VNCH được tổ chức theo lý thuyết là đơn vị nhỏ nhất là tiểu đội gồm 12 người, 3 tiểu đội gộp lại thành một trung đội, và ba trung đội thành một đại đội và 3 đại đội thành 1 tiểu đoàn. Và lệnh tác chiến phân bổ theo đơn vị chứ không theo số người dù rằng trên thực tế quân số đơn vị luôn luôn thiếu do hao hụt bởi cuộc chiến không bổ sung kịp. Như vậy con số 120 người lính nói trên thuộc bao nhiêu đơn vị?. Một đại đội quá thừa, mà hai đại đội quá thiếu quân số không phù hợp với thực tế . Như vậy chỉ có thể kết luận đây là con số 120 lính Mỹ chỉ là con số phóng đại trong cuộc hành quân nói trên. Phóng ảnh tr.290 báo cáo quân sự cho thấy chỉ có một trung đội hành quân lúc bấy giờ tức là dưới 36 người.
4.1.2.- Vũ khí, hỏa lực: Sau cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân, không kể các loại súng cộng đồng, hay đại liên, vũ khí cá nhân của hai bên cuộc chiến đã hoàn toàn thay đổi. lính miền Bắc sử dụng AK.47, riêng lính Mỹ và VNCH sử dụng súng M.16, M.15 đây là những loại súng tự động, bắn liên thanh hằng loạt với tốc độ nhanh, sát thương nhiều. Còn những loại súng bán tự động như carbin M.1, M.2, garant M.1, CKC không còn được dùng trong trực tiếp chiến đấu nữa vì hỏa lực yếu, tốc độ bắn chậm, dễ trở ngại tác xạ, các loại súng này chỉ được sử dụng canh gác thứ yếu ở những đơn vị phòng thủ cơ sở, hay nhát ma mà thôi.
Do vậy với hỏa lực SKS(?)chỉ có khả năng bắn tỉa bắn lén rồi chạy trốn làm gì có trực diện chiến đấu với 120 lính Mỹ. Vì chỉ cần nổ phát súng, lộ mục tiêu là banh thây ngay tích tắc chứ làm sao mà có thể cầm cự khá lâu. Đây là một sự hoang tưởng.
4.1.3.- Thực tế hành quân: Đội hình hành quân căn bản ở quân trường đã dạy, nhất là lính Mỹ lại càng được huấn luyện kỹ lưỡng hơn nữa, để tránh nhiều thương vong thì khi hành quân thường dùng đội hình quả trám hay đội hình hàng ngang và luôn luôn có toán trinh sát đi đầu. Như vậy DTT bất quá chỉ đụng phải toán trinh sát nhỏ này là đã chết bởi hỏa lực yếu kém của mình, đâu còn thời gian chờ 120 lính Mỹ đàng sau đi tới để chiến đấu trở thành anh hùng.
4.1.4.- Trở lại lời văn viết trong thư : “Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn”
Trong hành quân tác chiến, địch nổ súng vào mình tại sao không bắn trả theo phản xạ chiến trường, theo qui luật bất thành văn bắn chậm là chết, mà lại kêu gọi đầu hàng? Tại sao thấy người chạy trốn lại không bắn hay đuổi theo, trong khi muốn bắt họ? tại sao súng SKS lại có thể bắn được nhiều viên đạn bắn vào lính Mỹ mà 120 tay súng bắn lại khá lâu mới chặn được? Cũng là những điều nghịch lý.
4.1.5.- Đặng Thùy Trâm chiến đấu như một ANH HÙNG?
Chúng ta hãy nghe lời tự thuật của DTT trong nhật ký:
27-7-69 (Tr.173)
Bây giờ rất khó đi vì pháo bắn nên chị không thể dẫn đi được. Quả nhiên chưa nói dứt lời pháo đã nổ chát bên tai, lửa rực sáng cả khu vực mình ở. Đành phải ở lại nhà chị Thịnh đem nay một đêm đầu tiên mình phải sống bơ vơ không có ai đảm bảo cho mình ngoài những người dân đối với mình chỉ có một tình thương bình thường gần 3 năm nay đi đâu mình cũng vô tư mặc dù giữa tình hình rất căng thẳng mình vẫn yên tâm vì đã có người bảo vệ mình chu đáo, dựa vào họ mình không phải lo lắng gì cả. Đêm nay chỉ một mình mình lần đầu tiên kể từ ngày bước chân vào Nam mình phải suy nghĩ, địch càn xuống mình sẽ chạy đi đâu, nếu chúng tập kích vào đêm nay thì phải xử trí thế nào? Cần liên hệ với ai để có công sự ở
Tính vào thời điểm tháng 7-69, sau 3 năm vào Nam, DTT chưa một ngày trực tiếp chiến đấu, chưa hề cầm súng, đi đâu có người bảo vệ, chưa biết phản ứng ra sao khi địch tấn công.
Trong thư ông mô tả DTT một mình chiến đấu như là anh hùng, có phải DTT đã tự nguyện hay là bị bắt buộc chiến đấu? bị bỏ rơi không lối thoát? và đây là câu trả lời từ trong nhật ký DTT:
8.4.69 (Tr.139)
Địch càn, vào gần đến máng nước, còn một chút xíu nữa là cơ đồ của bệnh xá tan hoang. Biết địch gần sát bên nách mà sao mình bình tĩnh lạ lùng. Sau khi đưa thương binh đến chỗ trốn rồi mình quay lại đứng trong phòng mổ. Mình muốn thử xem nếu địch vào đến đây mình có đủ can đảm và linh hoạt giải quyết như những người thường hay ở lại hay không. Cuối cùng địch không vào và đêm đó mình lại ngủ ngon lành trong căn phòng trống trải lộn xộn giữa cảnh chạy càn.
28.4.69 (Tr.145)
Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có những cái lận đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Đảng vì thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh xá.
Chưa đến 6 giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay xách nách mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc trường Đảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ hôi được, mình đành động viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.
Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm chắc địch đã đến trạm trực nên quay vào báo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm gì thì anh em du kích dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đã vào đến máng nước rồi và tất cả nhân dân hối hả chạy.
Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải khiêng mà chỉ có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. “Không thể bỏ thương binh được, phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đồng chí ạ!”. Mình nói mà lòng thấy băn khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.
Mấy cas thương được chuyển đi, còn lại Kiệm - một thương binh cố định gãy xương đùi. Không biết làm sao mình gọi Lý - con bé học sinh - lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc, mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển giùm. May quá lại gặp Minh, Cơ - hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đã bắn chết đồng trí Vận - thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống hố trốn tạm một nơi.
Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu một mình Vận, còn cán bộ thì vắng chín đồng chí.
DTT đã bị bỏ rơi một mình với 5 thương binh nặng. Một giờ sau 9 cán bộ vẫn chưa về.
Hãy đọc tiếp trang nhật ký cuối cùng:
20.6.70 (Tr.255)
Đến hôm nay vẫn không thấy ai qua. Đã gần 10 ngày kể từ hôm bị bom lần thứ hai, mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp đến đón bọn mình ra khỏi khu vực nguy hiểm mà mọi người nghi là Điệp đã chỉ điểm nay. Từ lúc ấy, những người ở lại đếm từng giây phút, 6 giờ sáng mong chờ đến trưa, trưa mong cho đến chiều... Một ngày, hai ngày.. rồi chín ngày đã trôi đi mọi người vẫn không trở lại! Những câu hỏi cứ xoáy trong đầu óc mình và những người ở lại. Vì sao? lý do vì sao mà không trở lại. Có khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cách này sao?
Không ai trả lời bọn mình cả, mấy chị em hỏi nhau, bực bội, giận hờn rồi lại bật cười, nụ cười qua hai hàng nước mắt long lanh chực tràn ra trên mi mắt.
Hôm nay gạo chỉ còn ăn một bữa chiều nay là hết. Không thể ngồi nhìn thương binh đói được. Mà nếu đi, một người đi thì không đảm bảo, đường đi trăm nghìn nguy hiểm còn nếu đi hai người thì bỏ lại một người nếu có tình huống gì xẩy ra thì sao? Và không nói gì xa xôi, trước mắt trời sẽ ập nước xuống, một mình loay hoay lam sao cho kịp, chăng nilon trước thì sợ máy bay! Cuối cùng phải hai người đi chị Lãnh và Xăng ra đi, mình đứng nhìn hai người chị quần xắn tròn trên vế, lăn lội qua dòng suối nước chảy rầm rầm, tự nhiên nước mắt mình rưng rưng.
Qua những trang thư trên có thể kết luận rằng DTT chưa hề có một ngày trực tiếp cầm súng chiến đấu, DTT làm công tác hậu cần săn sóc thương binh, và đã từng bị bỏ rơi một mình khi có tình huống địch càn, và không có có kinh nghiệm úng xử lúc lâm trận thì làm gì có chuyện anh hùng chống 120 lính Mỹ. Cũng giống như hình ảnh những cán binh mặt còn búng ra sửa, không biết lý do vì sao mà phải đi chiến đấu, bị xích lại trong xe tăng lầm lũi tiến đến trong lửa đạn vì số lùi đã bị phá hỏng trong tết Mậu Thân tại thành Nội Huế. Cũng được ca ngợi là anh hùng?
DTT chết trong hoàn cảnh bỏ rơi một mình chỉ là trường hợp vắt chanh bỏ vỏ mà thôi.
4.1.6.- Thương binh ở đâu:? Theo mô tả tình huống trong lá thư ngày 17-06-70 (Tr.253)
“Ngày này Moran không quân, không khí im lặng thỉnh thoảng từng đợt những chiếc HU1A quần sát trên đồi, chắc chắn địch ở quanh khu vực này. Chỉ có ba chị em gái ở nhà cùng với năm thương binh cố định”
Ngày 20.6.70 hai người đi tìm lương thực, chỉ còn lại một mình DTT và 5 thương binh nặng nằm một chỗ.
Ngày 22.6.70 DTT chết tại sao không bắt được người nào? Vậy 5 thương binh ở đâu? Không lẽ 120 lính khỏe mạnh không chạy kịp 5 thương binh nằm tại chỗ ?
4.1.7.- Tiếng chân người? Với tình huống hiện trường như trên, thì một nghi vấn đặt ra là tiếng chân người chạy là ai? ở đây có nhiều kịch bản xảy ra trong ngày 21 và 22 như sau:
•KB1: Đoàn người không về. DTT phải chiến đấu cản đường với cây súng SKS để cho thương binh trốn thoát? Những thương binh nằm liệt giường mà còn khả năng chạy tạo nên tiếng chân thình thịch cho lính Mỹ nghe thấy? Với khoảng cách giữa địch và lính Mỹ phải rất xa? Nếu gần thì đã bị bắt vì chạy chậm hoặc đã chết vì nằm trong tầm hỏa lực của súng Mỹ.
•KB2: Đoàn người đi, đã trở về, nhưng trước tình huống địch tới đã bỏ chạy, bỏ rơi DTT một mình, với 5 thương binh.
•KB3: Đoàn người đã trở về cứu 5 thương binh, thì tại sao DTT lại không đi theo để săn sóc đó là nhiệm vụ chính của mình. Tất cả đi hết rồi, DTT ở lại chiến đấu làm gì?
Ba kịch bản trên đây đều là nghich lý. Và DTT đã nghi ngờ trong nhật ký là hợp lý theo kịch bản 4:
•KB: Tiếng chân người chạy là hư cấu vì thực tế trong tình hình nóng bỏng vào thời gian đó, không có ai về, để đem thương binh và DTT đi cả. Lời DTT đã nghi ngờ là bị bỏ rơi là đúng sự thật.
4.1.8.- Vết thương nạn nhân: Theo mô tả DTT nằm chết với cây súng, không thấy mô tả hầm trú ẩn, cho thấy DTT nằm chết trên mặt đất. Chỉ có một dấu đạn duy nhất trên trán nạn nhân (lời xác nhận của gia đình DTT). Đây là một điều nghịch lý vì với một người chiến đấu trên mặt đất trước hằng trăm viên đạn của 120 cây súng liên thanh tự động mà chỉ có một vết thương duy nhất?
Những ai đã từng tập bắn bia ở xạ trường sẽ biết rõ chỉ cần một tiểu đội bắn vào một tấm bia nhỏ (chứ đừng 120 cây súng bắn vào một con người) sẽ biết có bao nhiêu dấu đạn.
Với vết thương này chỉ có thể kết luận là bị lạc đạn chết mà thôi. Chứ không thể là vết thương của người trực tiếp chiến đấu trước số đông người được.
4.1.9.- Súng SKS hay CKC ? Trong thư ông Fred xác nhận cây súng trên mình DTT là súng SKS và ông đã giải thích:
Thứ Sáu, 6.5.2005
Em gái Kim,
... Kim hỏi về súng SKS. Em Kim ạ, tôi tin chắc câu chuyện mà người lính Mỹ nọ kể cho tôi nghe chính xác là về chị của các bạn. Người Mỹ gọi đó là súng trường SKS, đó không phải là AK47 mà là một khẩu súng bán tự động bắn từng phát một. Nhưng dù cho đó là súng gì thì cũng không khiến chúng ta phải ngờ ngợ về những giây phút cuối cùng của cuộc đời chị Thùy cũng như những hành động cuối cùng của chị. Mọi chi tiết khác quá giống nhau qua những câu chuyện bạn chị kể lại cũng như câu chuyện của người lính Mỹ kia.
Anh trai Fred. (Di sản DTT - talawas )
Với lời giải thích này ông đã xác quyết rằng trên xác DTT có cây súng SKS là loại súng bán tự động.
Nhưng thực tế trên chiến trường Việt Nam không hề có loại súng nào tên SKS cả mà chỉ có loại súng CKC hoặc SKZ mà thôi. Người biên tập đã sửa đổi súng SKS thành CKC như một lời xác nhận sự thật này. Không thể có sự lầm lẫn được, mà có thể giải đáp là không có cây súng đó hay chỉ là sự bịa đặt.
4.2.- THƯỢNG SĨ NGUYỄN TRUNG HIẾU:
Đây là nhân chứng thứ hai mà ông Fred đã kể ra trong thư với gia đình DTT:
5.2.1-Thứ bảy, 30.4.2005
Hiền và Kim,
Tôi nhớ rõ cái ngày đó tựa như hôm qua. Người lính đó là thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu, là phiên dịch cho đơn vị tôi. Anh ấy là một người bạn rất thân của tôi. Hôm ấy chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu, và sau khi đã tìm kiếm các tài liệu có giá trị quân sự chúng tôi bèn đem chất đống chúng lại để đốt. Trong khi tôi đang đốt các tài liệu thì Hiếu chặn tôi lại. Tay Hiếu cầm cuốn sổ nhật ký của chị các bạn và nói: “Fred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi.” Tôi vô cùng cảm động thấy Hiếu có thể kính trọng một kẻ thù nên làm theo lời anh. Nhiều đêm sau đó chúng tôi đã ngồi bên nhau và bắt đầu dịch cuốn nhật ký.
Nhưng chẳng được bao lâu, chiến tranh khiến tôi phải gác cuốn nhật ký qua bên. Khoảng một năm sau đó, trong khi tôi dịch thêm một số tài liệu với Hiếu thì anh lại một lần nữa nói với tôi rằng đây là cuốn nhật ký thứ hai của cô bác sĩ.
Fred (Di sản DTT - talawas)
Những nghi vấn trong câu chuyện này như sau:
•Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết quyển nhật ký của DTT có lửa? Trong khi tài liệu do chính tay ông Fred nhận được, đích thân tuyển chọn, số còn lại sửa soạn đốt đi.
•Ông Hiếu đã đọc tài liệu lúc nào? Tại sao lúc đọc phát hiện nhật ký có lửa lại không để riêng hay báo cho ông Fred biết để lưu ý, mà phải chờ lúc ông Fred đem thiêu hủy mới ngăn cản?
•Tại sao ông Hiếu biết quyển nhật ký (1970) là của Đặng Thùy Trâm trong khi trên bản nhật ký này ở trang đầu trang cuối không có ghi tên họ người viết nhật ký?
•Tại sao một năm sau, Hiếu lại có quyển nhật ký thứ hai (1968-1969)? Tại sao ông Fred không đặt ra nghi vấn về cuốn nhật ký này trong tay Hiếu? Đây là một trong hai cuốn nhật ký mà DTT đã bị ăn cướp theo như đã ghi trong nhật ký ngày 15-01-70 (Tr.216). Tính từ thời gian này đến ngày DTT chết 22-6-70 là hơn 5 tháng cọng thêm một năm sau tính từ ngày Fred nghe lời Hiếu nói nhật ký có lửa. Như vậy là cuốn nhật ký 68-69 đã lưu lạc trên dưới 18 tháng mới xuất hiện trong tay Hiếu đễ đưa cho ông Fred. Ở đây có 4 kịch bản xảy ra:
-KB.1: Cuốn nhật ký thất lạc trong rừng, 18 tháng sau Hiếu nhặt được ? Đây là chuyện hy hữu khó xảy ra vì sau 18 tháng tập sách phơi mưa nắng ở khó có thể còn nguyên vẹn và Hiếu cũng khó có thể tình cờ may mắn như vậy được.
-KB.2: Cuốn nhật ký này bị lính Mỹ hay lính VNCH tịch thu thì với thời gian này đã bị xử lý hoặc thiêu hủy rồi.
-KB.3: Đơn vị của Fred đã tịch thu từ lâu mà Hiếu đã ém lại để 18 tháng sau mới đưa ra lại càng nghịch lý.
Tóm lại ba kịch bản trên đây không có tính xác thực và khả thị. Vậy chỉ còn duy nhất kịch bản sau đây là hợp với tình huống trên mà thôi:
-KB.4: Cuốn nhật ký thực tế không bị ăn cướp, mà chính ban phản gián hay chính trị của đơn vị Thùy Trâm ăn cướp mà không cho DTT biết. Hành động này nằm trong kế hoạch đã được dàn dựng sẵn(?)(Sẽ có kết luận ở phần sau)4.2.2.- Theo báo Tuổi trẻ số 21.10.2005 - bài hành trình đi tìm Nguyễn Trung Hiếu kỳ cuối:
Ông Hiếu đã tiết lộ một tình tiết thú vị liên quan đến bài thơ Núi Đôi: Khi cuốn nhật ký lọt vào tay Nguyễn Trung Hiếu, một mảnh giấy rời chép nguyên văn bài thơ Núi Đôi được kẹp giữa những trang viết.
Nguyễn Trung Hiếu mê mẩn những câu thơ và đã đánh liều giữ lại nó cho mình trước khi đưa cho Fred cuốn sổ nhỏ. Tiếc là đến giờ ông không còn giữ được trang giấy viết tay mà ông cho đó là của người bạn tên MINH mà chị Thùy Trâm nhắc tới trong nhật ký đã chép tặng chị.
Tại sao trong nhật ký không kể lại chuyện M tặng bài thơ Núi Đôi? Một sự kiện quan trọng trong đời sống tình cảm của DTT. Trong nhật ký ngày 14.8.1968 (Tr.72) DTT chỉ ghi là Khiêm cũng rất thích bài “Núi đôi”. “Quê hương”.. mà không hề nhắc nhở gì đến M. cả.
Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết rõ tên Minh người yêu của Thùy Trâm là tên hoàn toàn viết tắt M. trong nhật ký?
4.3.- NHÂN CHỨNG CHÍNH QUYỀN::
Anh Tâm bí thư huyện ủy Đức Phổ hiện nay, cho biết anh được nghe kể lại trước khi hi sinh chị còn hô vang: “Hồ Chí Minh muôn năm. Đả đảo đế quốc Mỹ” (Tr.258)
Lời hô này xảy ra trước hay sau khi bị bắn? Trước khi chết không lo chiến đấu, mà hô khẩu hiệu để lộ mục tiêu ẩn núp cho địch bắn chết? Nếu sau khi bị bắn với viên đạn vào trán thì có còn thở được không chứ đừng nói là hô to. Viên đạn ở trán cũng giống như phát súng ân huệ của người chỉ huy bắn vào đầu tội phạm nơi pháp trường.
5. Nét bút thật của Đặng Thùy Trâm
Đây là niềm hãnh diện của Đặng Thùy Trâm, người trí thức XHCN toàn diện(?)
Với thành tích trên đã khơi động sự tò mò của người viết phải đi tìm lại dấu tích con đường học vấn của tác giả. Qua lời kể bà mẹ DTT:
Bà cụ nói: “Gia đình không tưởng tượng được là ngay ở Đức Phổ, Quảng Ngãi mà Thùy còn gây dựng được một vườn thuốc và người dân vẫn giữ gìn đến tận bây giờ”. Chị Kim Trâm tiếp lời: “Vốn kiến thức về dược liệu mà chị Thùy có đấy là được mẹ truyền cho từ ngày còn nhỏ. Trường y đâu có dạy chị về dược liệu, nhất là thuốc nam. Hồi bé, chúng tôi ở với cha mẹ ngay trong khu tập thể Bộ Y tế, đằng sau là một vườn thực vật rộng mênh mông. Ngoài giờ học và làm việc nhà, mấy chị em toàn chạy vào vườn thuốc chơi.
Chúng tôi lấy những lá chuối to che lại làm lều, “cắm trại” ngay trong vườn thuốc, trò chơi yêu thích nhất của chúng tôi là “đố cây đố lá”, lá này của cây gì, dùng để làm gì. Không biết thì về hỏi mẹ. Cứ như thế mà chúng tôi biết được tên gọi và công dụng của các cây thuốc trong vườn”.
Bà cụ lại tiếp: “Thùy nó học nhiều hơn ở cha. Thùy học chuyên khoa mắt, không học ngoại, nhưng hằng ngày sau khi học ở trường y về Thùy vẫn đến bệnh viện của cha để theo dõi cha mổ, để học thêm những kinh nghiệm điều trị của cha. Tối đến, hay vào các ngày nghỉ, hai cha con lại say sưa cùng nhau vẽ. Ông ấy không dạy Thùy vẽ tranh phong cảnh mà dạy con vẽ người trên các bức hình giải phẫu. Ông ấy vẽ đẹp lắm, Thùy nhờ cha cũng vẽ rất khá, và cũng từ các bức vẽ “anatomie” ấy, cùng với những lần theo cha đi trực giải phẫu mà sau này khi vào chiến trường, nó có thể bắt tay làm phẫu thuật thương binh được, dù học chuyên khoa mắt”. (Báo Tuổi trẻ 4-8-2005 bài ngọn nến vẫn cháy mãi)
Tóm lại DTT học tây y chuyên khoa mắt, nhưng ra làm chuyên viên giải phẫu đủ các loại bệnh và chữa trị bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn, chẳng khác gì các thầy thuốc lang băm. Một kỷ lục đáng hãnh diện ghi vào lịch sử phát triển y tế CNXH Việt Nam(?)
Đọc tiếp nhật ký (tr.314-315) “ Ai biết liệt sĩ Đặng Thùy Trâm? ... Chúng tôi đã hỏi trường Đại học Y khoa. Sở Lao động Thương binh-Xã hội, hỏi Ban liên lạc họ Đặng Việt Nam, đến cả Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam cũng không ai biết”.
DTT tốt nghiệp loại ưu là một vinh dự cho nhà trường và gia đình tại sao không có tên trong danh sách tốt nghiệp? Tại sao gia đình không có giữ một bằng chứng nào như văn bằng tốt nghiệp, hình ảnh lễ mãn khóa, tiệc mừng gia đình lúc DTT tốt nghiệp? Trong khi gia đình vẫn còn giữ hình ảnh những ngày cuối cùng trước khi vào Nam chiến đấu. Điều này chứng tỏ DTT không có làm lễ mãn khóa ra trường, không có đem văn bằng tốt nghiệp về cho gia đình lưu giữ (?)Chỉ có một câu trả lời hợp lý là DTT chưa bao giờ tốt nghiệp đại học y khoa. và DTT đã khai man lý lịch trước khi vào Nam chiến đấu?
Hãy nghe lời nhân chứng trong nkdtt (tr.319) lời của ông Ngô Sơn Huy (nguyên phó hiệu trưởng trường PTDL Đinh Tiên Hoàng) là bạn thân của Đặng Thùy Trâm như sau: “ Qua lời Trâm kể, tôi biết Trâm được tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội sớm một năm để đi chiến trường.”
Tại sao DTT lại tốt nghiệp sớm một năm? Theo thông lệ miền Nam sinh viên ra trường sớm hơn học trình đào tạo chỉ rơi vào những trường hợp học kém hay bị kỷ luật bị sa thải mà thôi. Sinh viên ở miền Bắc thì sao? chắc không ra ngoài thông lệ đó?
Hãy nghe DTT tự thú trong nhật ký:
23-07-69 (Tr.170)
Một chiếc bật lửa Mỹ có khắc tên mình cạnh tên người đồng chí thân yêu. Anh Đáo đưa nó cho mình và hỏi ai khắc. Mình cười vô tư rồi trả lại anh nhưng lúc ra về mình cảm thấy nao nao. M. ơi! Anh khắc tên em cạnh anh vì sao? Vì những ngày xưa thơ mộng vì tình thương yêu đằm thắm nơi anh vẫn còn hay vì đó là một động tác bình thường của anh? Thực ra không ai làm việc gì mà không có ý nghĩ. M. lại càng không phải là loại người như vậy nhưng M. ơi, anh hãy nói đi anh, vì sao anh khắc tên em bên cạnh tên người bộ đội giải phóng quân mà anh thường nói rằng không phù hợp với cô sinh viên y khoa ấy?
M là người yêu của DTT từ 8 năm trước, vẫn xem DTT là một sinh viên y khoa dù DTT đã làm việc với chức danh bác sĩ đã 3 năm qua, đây là điều nghịch lý trong nhật ký. Chỉ có thể lý giải một điều bí mật chỉ có giữa M. và DTT biết rất rõ mà thôi đó là : DTT là một sinh viên y khoa và chưa bao giờ tốt nghiệp và mãi mãi vẫn là một sinh viên y khoa trong lòng M. DTT đã chấp nhận sự thật đó! DTT không hề phản kháng hay hờn giận.
4.- NHỮNG NGHI VẤN XUNG QUANH CUỐN NHẬT KÝ:
Đây là phần nội dung biên soạn trong sách in do những người chỉnh lý biên soạn và nhân chứng liên quan hoàn toàn không có trong bản gốc nhật ký.
4.1 NGƯỜI LƯU GIỮ NHẬT KÝ:
Câu chuyện xuất phát từ ông tiến sĩ FREDERIC WHITEHURST, 35 năm về trước là một người lính trinh sát Hoa Kỳ có lưu giữ hai tập nhật ký của ĐTT, và ông đã có ý định tìm lại gia đình DTT để tính đến chuyện xuất bản tập nhật ký trên, phần sau là một trong những thư trao đổi đầu tiên giữa ông Frederic Whithurs với gia đình DTT.
Chủ nhật, 1.5.2005
Thưa bà Trâm,
Tôi mong rằng lá thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin đó là cái chết của con gái bà. Tôi ngồi chờ một trận đánh cùng một quân đoàn Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh trong quá khứ.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí và họ chỉ cần tích tắc để chặn một tay súng lại. Khi thấy bị bắn tiếp lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy rằng người đó chết trong khi bảo vệ các bệnh nhân của một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu SKS và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Di sản của DDT-Talawas)
Bức thư trên đã được chỉnh lý sửa đổi. Người biên tập đã ngang nhiên sửa đổi nội dung thư từ riêng của một luật sư tiến sĩ (có sự đồng ý của tác giả bức thư không?) đây là một điều xúc phạm nặng nề, khó chấp nhận được. Sau đây là bức thư bị sửa đổi:
20g27, chủ nhật 1-5-2005
Thưa bà Trâm.
Tôi mong rằng thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin: đó là trường hợp hi sinh của con gái bà. Tôi đang ngồi chờ một trận đánh cùng một đơn vị lính Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh đã từng tham dự.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị của anh ta gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh ta gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có một người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn hãy đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi đầu hàng là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy người đó đang bảo vệ các bệnh nhân trong một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu CKC và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Tr.259)
Phải chăng ông Fred sợ rằng gia đình không tin câu chuyện kể của mình , nên ông Fred đã cẩn thận nhấn mạnh lần thứ hai qua bức sau:
9g44, thứ hai, 2-5-2005.
Thưa bà Trâm.
Và giờ đây thắc mắc của tôi đã được giải đáp. Trận đánh mà người lính nọ tả lại cho tôi đúng là điều đã xảy ra. Con gái bà đã một mình chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo vệ các bạn mình.
Ở bất cứ đất nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là ANH HÙNG và những người anh hùng đều được tất cả mọi người tôn kính, dù người đó là đàn ông hay đàn bà. Thế giới phải được biết về sự dũng cảm của con gái bà và mãi mãi học hỏi được điều gì đó từ tình yêu và những suy nghĩ của chị. Fred (tr. 261)
Thưa ông tiến sỹ Frederic Whithurs qua nội dung bức thư tự giới thiệu:
Thứ Ba, 3.5.2005
Hiền và Hồ thân mến,
.... Khi trở về nhà sau chiến tranh, thân thể tôi chỉ bị thương chút ít nhưng trái tim tôi bị tổn thương. Ngay sau khi trở về tôi quay lại trường đại học và tiếp tục học môn hóa. Học xong đại học tôi tiếp tục làm tiến sĩ về hóa học ở đại học Duke trong năm năm rưỡi. Tôi nhớ đó là một thời gian rất khó khăn. Khi làm luận án tiến sĩ tôi cần có người tài trợ, và giáo sư hướng dẫn của tôi chọn người tài trợ là quân đội Mỹ.
Nhưng họ muốn tôi nghiên cứu về các vật liệu có chứa phốt-pho. Những nghiên cứu như thế có thể giúp phát triển một cuộc chiến tranh khí hóa học. Tôi tức giận từ chối và nói với giáo sư là tôi sẽ thôi không nghiên cứu nữa. Tôi sẽ không để cho người ta sử dụng mình để giết người một lần nữa. Giáo sư nói với tôi rằng một ngày kia tôi sẽ hiểu bất cứ điều gì do con người sáng tạo ra sẽ có một kẻ tìm cách sử dụng nó với những mục đích hủy hoại, đồng thời sẽ có người khác tìm cách sử dụng nó với mục đích tốt đẹp. Dẫu thế tôi vẫn từ chối và cuối cùng đề tài nghiên cứu của tôi là hóa học các-bon. Sau khi nhận được bằng tiến sĩ hóa học vào năm 1980 tôi tới Texas để tiếp tục học tập và nghiên cứu, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận thấy không thỏa mãn. Vậy là tôi lại làm việc cho chính phủ Mỹ một lần nữa và trở thành một nhân viên của FBI. Suốt bốn năm, mặc dù là tiến sĩ hóa học nhưng tôi lại làm một thám tử đặc biệt của FBI chuyên điều tra các vụ cướp nhà băng, bắt cóc trẻ em, các vụ ma túy có liên quan đến heroin, cần sa, cocain và các chất gây nghiện khác. Sau đó tôi chuyển tới làm ở một phòng thí nghiệm về các tội phạm hình sự của FBI, Washington D.C. Chính ở đó tôi đã trở nên nổi tiếng cả ở trong nước lẫn quốc tế. Các bạn thử gõ tên tôi trên Internet và xem người ta đã viết những gì. Cuối cùng tôi đã kiện Tổng thống Mỹ, Tổng Luật sư, Giám đốc FBI, Cơ quan FBI, Bộ Tư pháp Mỹ và Chính phủ Mỹ.Đó là cả một câu chuyện dài về một người đàn ông không làm ngơ trước những sai trái.Năm 1998, sau khi thắng tất cả các vụ kiện, tôi về hưu sớm, quay về sống ở cái xóm nhỏ Bethel để tiếp tục công việc và chăm sóc cha mẹ tôi.Năm 2000 cha tôi qua đời nhưng mẹ tôi còn sống và là một kho báu đối với gia đình tôi cũng như đối với tôi.Vì tôi có học luật trong những năm từ 1992 đến 1996 ở Đại học Georgetown ở Washington DC cho nên từ khoảng hai năm rưỡi nay tôi bắt đầu hành nghề luật. ... Fred (Di sản DTT - Talawas)
Ông là người có nhiều kinh nghiệm thực tế và kiến thức uyên bác như trên thì tôi không nghĩ là ông không biết (trừ phi ông cố tình không muốn biết) câu chuyên của người lính vô danh cách đây 35 năm chỉ là DỐI TRÁ, là HƯ CẤU. Thế mà ông vẫn cố tình tin là sự thật(?)để tạo dựng nên một mẫu anh hùng ĐẶNG THÙY TRÂM thì người viết đành phải đặt nghi vấn về sự trong sáng của cá nhân ông trong công việc lưu trữ nhật ký này bởi những nghịch lý sơ đẳng như sau:
4.1.1.- Quân số và đơn vị: Trước 1975 hệ thống binh quyền của lính Mỹ và VNCH được tổ chức theo lý thuyết là đơn vị nhỏ nhất là tiểu đội gồm 12 người, 3 tiểu đội gộp lại thành một trung đội, và ba trung đội thành một đại đội và 3 đại đội thành 1 tiểu đoàn. Và lệnh tác chiến phân bổ theo đơn vị chứ không theo số người dù rằng trên thực tế quân số đơn vị luôn luôn thiếu do hao hụt bởi cuộc chiến không bổ sung kịp. Như vậy con số 120 người lính nói trên thuộc bao nhiêu đơn vị?. Một đại đội quá thừa, mà hai đại đội quá thiếu quân số không phù hợp với thực tế . Như vậy chỉ có thể kết luận đây là con số 120 lính Mỹ chỉ là con số phóng đại trong cuộc hành quân nói trên. Phóng ảnh tr.290 báo cáo quân sự cho thấy chỉ có một trung đội hành quân lúc bấy giờ tức là dưới 36 người.
4.1.2.- Vũ khí, hỏa lực: Sau cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân, không kể các loại súng cộng đồng, hay đại liên, vũ khí cá nhân của hai bên cuộc chiến đã hoàn toàn thay đổi. lính miền Bắc sử dụng AK.47, riêng lính Mỹ và VNCH sử dụng súng M.16, M.15 đây là những loại súng tự động, bắn liên thanh hằng loạt với tốc độ nhanh, sát thương nhiều. Còn những loại súng bán tự động như carbin M.1, M.2, garant M.1, CKC không còn được dùng trong trực tiếp chiến đấu nữa vì hỏa lực yếu, tốc độ bắn chậm, dễ trở ngại tác xạ, các loại súng này chỉ được sử dụng canh gác thứ yếu ở những đơn vị phòng thủ cơ sở, hay nhát ma mà thôi.
Do vậy với hỏa lực SKS(?)chỉ có khả năng bắn tỉa bắn lén rồi chạy trốn làm gì có trực diện chiến đấu với 120 lính Mỹ. Vì chỉ cần nổ phát súng, lộ mục tiêu là banh thây ngay tích tắc chứ làm sao mà có thể cầm cự khá lâu. Đây là một sự hoang tưởng.
4.1.3.- Thực tế hành quân: Đội hình hành quân căn bản ở quân trường đã dạy, nhất là lính Mỹ lại càng được huấn luyện kỹ lưỡng hơn nữa, để tránh nhiều thương vong thì khi hành quân thường dùng đội hình quả trám hay đội hình hàng ngang và luôn luôn có toán trinh sát đi đầu. Như vậy DTT bất quá chỉ đụng phải toán trinh sát nhỏ này là đã chết bởi hỏa lực yếu kém của mình, đâu còn thời gian chờ 120 lính Mỹ đàng sau đi tới để chiến đấu trở thành anh hùng.
4.1.4.- Trở lại lời văn viết trong thư : “Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn”
Trong hành quân tác chiến, địch nổ súng vào mình tại sao không bắn trả theo phản xạ chiến trường, theo qui luật bất thành văn bắn chậm là chết, mà lại kêu gọi đầu hàng? Tại sao thấy người chạy trốn lại không bắn hay đuổi theo, trong khi muốn bắt họ? tại sao súng SKS lại có thể bắn được nhiều viên đạn bắn vào lính Mỹ mà 120 tay súng bắn lại khá lâu mới chặn được? Cũng là những điều nghịch lý.
4.1.5.- Đặng Thùy Trâm chiến đấu như một ANH HÙNG?
Chúng ta hãy nghe lời tự thuật của DTT trong nhật ký:
27-7-69 (Tr.173)
Bây giờ rất khó đi vì pháo bắn nên chị không thể dẫn đi được. Quả nhiên chưa nói dứt lời pháo đã nổ chát bên tai, lửa rực sáng cả khu vực mình ở. Đành phải ở lại nhà chị Thịnh đem nay một đêm đầu tiên mình phải sống bơ vơ không có ai đảm bảo cho mình ngoài những người dân đối với mình chỉ có một tình thương bình thường gần 3 năm nay đi đâu mình cũng vô tư mặc dù giữa tình hình rất căng thẳng mình vẫn yên tâm vì đã có người bảo vệ mình chu đáo, dựa vào họ mình không phải lo lắng gì cả. Đêm nay chỉ một mình mình lần đầu tiên kể từ ngày bước chân vào Nam mình phải suy nghĩ, địch càn xuống mình sẽ chạy đi đâu, nếu chúng tập kích vào đêm nay thì phải xử trí thế nào? Cần liên hệ với ai để có công sự ở
Tính vào thời điểm tháng 7-69, sau 3 năm vào Nam, DTT chưa một ngày trực tiếp chiến đấu, chưa hề cầm súng, đi đâu có người bảo vệ, chưa biết phản ứng ra sao khi địch tấn công.
Trong thư ông mô tả DTT một mình chiến đấu như là anh hùng, có phải DTT đã tự nguyện hay là bị bắt buộc chiến đấu? bị bỏ rơi không lối thoát? và đây là câu trả lời từ trong nhật ký DTT:
8.4.69 (Tr.139)
Địch càn, vào gần đến máng nước, còn một chút xíu nữa là cơ đồ của bệnh xá tan hoang. Biết địch gần sát bên nách mà sao mình bình tĩnh lạ lùng. Sau khi đưa thương binh đến chỗ trốn rồi mình quay lại đứng trong phòng mổ. Mình muốn thử xem nếu địch vào đến đây mình có đủ can đảm và linh hoạt giải quyết như những người thường hay ở lại hay không. Cuối cùng địch không vào và đêm đó mình lại ngủ ngon lành trong căn phòng trống trải lộn xộn giữa cảnh chạy càn.
28.4.69 (Tr.145)
Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có những cái lận đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Đảng vì thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh xá.
Chưa đến 6 giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay xách nách mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc trường Đảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ hôi được, mình đành động viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.
Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm chắc địch đã đến trạm trực nên quay vào báo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm gì thì anh em du kích dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đã vào đến máng nước rồi và tất cả nhân dân hối hả chạy.
Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải khiêng mà chỉ có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. “Không thể bỏ thương binh được, phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đồng chí ạ!”. Mình nói mà lòng thấy băn khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.
Mấy cas thương được chuyển đi, còn lại Kiệm - một thương binh cố định gãy xương đùi. Không biết làm sao mình gọi Lý - con bé học sinh - lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc, mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển giùm. May quá lại gặp Minh, Cơ - hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đã bắn chết đồng trí Vận - thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống hố trốn tạm một nơi.
Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu một mình Vận, còn cán bộ thì vắng chín đồng chí.
DTT đã bị bỏ rơi một mình với 5 thương binh nặng. Một giờ sau 9 cán bộ vẫn chưa về.
Hãy đọc tiếp trang nhật ký cuối cùng:
20.6.70 (Tr.255)
Đến hôm nay vẫn không thấy ai qua. Đã gần 10 ngày kể từ hôm bị bom lần thứ hai, mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp đến đón bọn mình ra khỏi khu vực nguy hiểm mà mọi người nghi là Điệp đã chỉ điểm nay. Từ lúc ấy, những người ở lại đếm từng giây phút, 6 giờ sáng mong chờ đến trưa, trưa mong cho đến chiều... Một ngày, hai ngày.. rồi chín ngày đã trôi đi mọi người vẫn không trở lại! Những câu hỏi cứ xoáy trong đầu óc mình và những người ở lại. Vì sao? lý do vì sao mà không trở lại. Có khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cách này sao?
Không ai trả lời bọn mình cả, mấy chị em hỏi nhau, bực bội, giận hờn rồi lại bật cười, nụ cười qua hai hàng nước mắt long lanh chực tràn ra trên mi mắt.
Hôm nay gạo chỉ còn ăn một bữa chiều nay là hết. Không thể ngồi nhìn thương binh đói được. Mà nếu đi, một người đi thì không đảm bảo, đường đi trăm nghìn nguy hiểm còn nếu đi hai người thì bỏ lại một người nếu có tình huống gì xẩy ra thì sao? Và không nói gì xa xôi, trước mắt trời sẽ ập nước xuống, một mình loay hoay lam sao cho kịp, chăng nilon trước thì sợ máy bay! Cuối cùng phải hai người đi chị Lãnh và Xăng ra đi, mình đứng nhìn hai người chị quần xắn tròn trên vế, lăn lội qua dòng suối nước chảy rầm rầm, tự nhiên nước mắt mình rưng rưng.
Qua những trang thư trên có thể kết luận rằng DTT chưa hề có một ngày trực tiếp cầm súng chiến đấu, DTT làm công tác hậu cần săn sóc thương binh, và đã từng bị bỏ rơi một mình khi có tình huống địch càn, và không có có kinh nghiệm úng xử lúc lâm trận thì làm gì có chuyện anh hùng chống 120 lính Mỹ. Cũng giống như hình ảnh những cán binh mặt còn búng ra sửa, không biết lý do vì sao mà phải đi chiến đấu, bị xích lại trong xe tăng lầm lũi tiến đến trong lửa đạn vì số lùi đã bị phá hỏng trong tết Mậu Thân tại thành Nội Huế. Cũng được ca ngợi là anh hùng?
DTT chết trong hoàn cảnh bỏ rơi một mình chỉ là trường hợp vắt chanh bỏ vỏ mà thôi.
4.1.6.- Thương binh ở đâu:? Theo mô tả tình huống trong lá thư ngày 17-06-70 (Tr.253)
“Ngày này Moran không quân, không khí im lặng thỉnh thoảng từng đợt những chiếc HU1A quần sát trên đồi, chắc chắn địch ở quanh khu vực này. Chỉ có ba chị em gái ở nhà cùng với năm thương binh cố định”
Ngày 20.6.70 hai người đi tìm lương thực, chỉ còn lại một mình DTT và 5 thương binh nặng nằm một chỗ.
Ngày 22.6.70 DTT chết tại sao không bắt được người nào? Vậy 5 thương binh ở đâu? Không lẽ 120 lính khỏe mạnh không chạy kịp 5 thương binh nằm tại chỗ ?
4.1.7.- Tiếng chân người? Với tình huống hiện trường như trên, thì một nghi vấn đặt ra là tiếng chân người chạy là ai? ở đây có nhiều kịch bản xảy ra trong ngày 21 và 22 như sau:
•KB1: Đoàn người không về. DTT phải chiến đấu cản đường với cây súng SKS để cho thương binh trốn thoát? Những thương binh nằm liệt giường mà còn khả năng chạy tạo nên tiếng chân thình thịch cho lính Mỹ nghe thấy? Với khoảng cách giữa địch và lính Mỹ phải rất xa? Nếu gần thì đã bị bắt vì chạy chậm hoặc đã chết vì nằm trong tầm hỏa lực của súng Mỹ.
•KB2: Đoàn người đi, đã trở về, nhưng trước tình huống địch tới đã bỏ chạy, bỏ rơi DTT một mình, với 5 thương binh.
•KB3: Đoàn người đã trở về cứu 5 thương binh, thì tại sao DTT lại không đi theo để săn sóc đó là nhiệm vụ chính của mình. Tất cả đi hết rồi, DTT ở lại chiến đấu làm gì?
Ba kịch bản trên đây đều là nghich lý. Và DTT đã nghi ngờ trong nhật ký là hợp lý theo kịch bản 4:
•KB: Tiếng chân người chạy là hư cấu vì thực tế trong tình hình nóng bỏng vào thời gian đó, không có ai về, để đem thương binh và DTT đi cả. Lời DTT đã nghi ngờ là bị bỏ rơi là đúng sự thật.
4.1.8.- Vết thương nạn nhân: Theo mô tả DTT nằm chết với cây súng, không thấy mô tả hầm trú ẩn, cho thấy DTT nằm chết trên mặt đất. Chỉ có một dấu đạn duy nhất trên trán nạn nhân (lời xác nhận của gia đình DTT). Đây là một điều nghịch lý vì với một người chiến đấu trên mặt đất trước hằng trăm viên đạn của 120 cây súng liên thanh tự động mà chỉ có một vết thương duy nhất?
Những ai đã từng tập bắn bia ở xạ trường sẽ biết rõ chỉ cần một tiểu đội bắn vào một tấm bia nhỏ (chứ đừng 120 cây súng bắn vào một con người) sẽ biết có bao nhiêu dấu đạn.
Với vết thương này chỉ có thể kết luận là bị lạc đạn chết mà thôi. Chứ không thể là vết thương của người trực tiếp chiến đấu trước số đông người được.
4.1.9.- Súng SKS hay CKC ? Trong thư ông Fred xác nhận cây súng trên mình DTT là súng SKS và ông đã giải thích:
Thứ Sáu, 6.5.2005
Em gái Kim,
... Kim hỏi về súng SKS. Em Kim ạ, tôi tin chắc câu chuyện mà người lính Mỹ nọ kể cho tôi nghe chính xác là về chị của các bạn. Người Mỹ gọi đó là súng trường SKS, đó không phải là AK47 mà là một khẩu súng bán tự động bắn từng phát một. Nhưng dù cho đó là súng gì thì cũng không khiến chúng ta phải ngờ ngợ về những giây phút cuối cùng của cuộc đời chị Thùy cũng như những hành động cuối cùng của chị. Mọi chi tiết khác quá giống nhau qua những câu chuyện bạn chị kể lại cũng như câu chuyện của người lính Mỹ kia.
Anh trai Fred. (Di sản DTT - talawas )
Với lời giải thích này ông đã xác quyết rằng trên xác DTT có cây súng SKS là loại súng bán tự động.
Nhưng thực tế trên chiến trường Việt Nam không hề có loại súng nào tên SKS cả mà chỉ có loại súng CKC hoặc SKZ mà thôi. Người biên tập đã sửa đổi súng SKS thành CKC như một lời xác nhận sự thật này. Không thể có sự lầm lẫn được, mà có thể giải đáp là không có cây súng đó hay chỉ là sự bịa đặt.
4.2.- THƯỢNG SĨ NGUYỄN TRUNG HIẾU:
Đây là nhân chứng thứ hai mà ông Fred đã kể ra trong thư với gia đình DTT:
5.2.1-Thứ bảy, 30.4.2005
Hiền và Kim,
Tôi nhớ rõ cái ngày đó tựa như hôm qua. Người lính đó là thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu, là phiên dịch cho đơn vị tôi. Anh ấy là một người bạn rất thân của tôi. Hôm ấy chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu, và sau khi đã tìm kiếm các tài liệu có giá trị quân sự chúng tôi bèn đem chất đống chúng lại để đốt. Trong khi tôi đang đốt các tài liệu thì Hiếu chặn tôi lại. Tay Hiếu cầm cuốn sổ nhật ký của chị các bạn và nói: “Fred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi.” Tôi vô cùng cảm động thấy Hiếu có thể kính trọng một kẻ thù nên làm theo lời anh. Nhiều đêm sau đó chúng tôi đã ngồi bên nhau và bắt đầu dịch cuốn nhật ký.
Nhưng chẳng được bao lâu, chiến tranh khiến tôi phải gác cuốn nhật ký qua bên. Khoảng một năm sau đó, trong khi tôi dịch thêm một số tài liệu với Hiếu thì anh lại một lần nữa nói với tôi rằng đây là cuốn nhật ký thứ hai của cô bác sĩ.
Fred (Di sản DTT - talawas)
Những nghi vấn trong câu chuyện này như sau:
•Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết quyển nhật ký của DTT có lửa? Trong khi tài liệu do chính tay ông Fred nhận được, đích thân tuyển chọn, số còn lại sửa soạn đốt đi.
•Ông Hiếu đã đọc tài liệu lúc nào? Tại sao lúc đọc phát hiện nhật ký có lửa lại không để riêng hay báo cho ông Fred biết để lưu ý, mà phải chờ lúc ông Fred đem thiêu hủy mới ngăn cản?
•Tại sao ông Hiếu biết quyển nhật ký (1970) là của Đặng Thùy Trâm trong khi trên bản nhật ký này ở trang đầu trang cuối không có ghi tên họ người viết nhật ký?
•Tại sao một năm sau, Hiếu lại có quyển nhật ký thứ hai (1968-1969)? Tại sao ông Fred không đặt ra nghi vấn về cuốn nhật ký này trong tay Hiếu? Đây là một trong hai cuốn nhật ký mà DTT đã bị ăn cướp theo như đã ghi trong nhật ký ngày 15-01-70 (Tr.216). Tính từ thời gian này đến ngày DTT chết 22-6-70 là hơn 5 tháng cọng thêm một năm sau tính từ ngày Fred nghe lời Hiếu nói nhật ký có lửa. Như vậy là cuốn nhật ký 68-69 đã lưu lạc trên dưới 18 tháng mới xuất hiện trong tay Hiếu đễ đưa cho ông Fred. Ở đây có 4 kịch bản xảy ra:
-KB.1: Cuốn nhật ký thất lạc trong rừng, 18 tháng sau Hiếu nhặt được ? Đây là chuyện hy hữu khó xảy ra vì sau 18 tháng tập sách phơi mưa nắng ở khó có thể còn nguyên vẹn và Hiếu cũng khó có thể tình cờ may mắn như vậy được.
-KB.2: Cuốn nhật ký này bị lính Mỹ hay lính VNCH tịch thu thì với thời gian này đã bị xử lý hoặc thiêu hủy rồi.
-KB.3: Đơn vị của Fred đã tịch thu từ lâu mà Hiếu đã ém lại để 18 tháng sau mới đưa ra lại càng nghịch lý.
Tóm lại ba kịch bản trên đây không có tính xác thực và khả thị. Vậy chỉ còn duy nhất kịch bản sau đây là hợp với tình huống trên mà thôi:
-KB.4: Cuốn nhật ký thực tế không bị ăn cướp, mà chính ban phản gián hay chính trị của đơn vị Thùy Trâm ăn cướp mà không cho DTT biết. Hành động này nằm trong kế hoạch đã được dàn dựng sẵn(?)(Sẽ có kết luận ở phần sau)4.2.2.- Theo báo Tuổi trẻ số 21.10.2005 - bài hành trình đi tìm Nguyễn Trung Hiếu kỳ cuối:
Ông Hiếu đã tiết lộ một tình tiết thú vị liên quan đến bài thơ Núi Đôi: Khi cuốn nhật ký lọt vào tay Nguyễn Trung Hiếu, một mảnh giấy rời chép nguyên văn bài thơ Núi Đôi được kẹp giữa những trang viết.
Nguyễn Trung Hiếu mê mẩn những câu thơ và đã đánh liều giữ lại nó cho mình trước khi đưa cho Fred cuốn sổ nhỏ. Tiếc là đến giờ ông không còn giữ được trang giấy viết tay mà ông cho đó là của người bạn tên MINH mà chị Thùy Trâm nhắc tới trong nhật ký đã chép tặng chị.
Tại sao trong nhật ký không kể lại chuyện M tặng bài thơ Núi Đôi? Một sự kiện quan trọng trong đời sống tình cảm của DTT. Trong nhật ký ngày 14.8.1968 (Tr.72) DTT chỉ ghi là Khiêm cũng rất thích bài “Núi đôi”. “Quê hương”.. mà không hề nhắc nhở gì đến M. cả.
Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết rõ tên Minh người yêu của Thùy Trâm là tên hoàn toàn viết tắt M. trong nhật ký?
4.3.- NHÂN CHỨNG CHÍNH QUYỀN::
Anh Tâm bí thư huyện ủy Đức Phổ hiện nay, cho biết anh được nghe kể lại trước khi hi sinh chị còn hô vang: “Hồ Chí Minh muôn năm. Đả đảo đế quốc Mỹ” (Tr.258)
Lời hô này xảy ra trước hay sau khi bị bắn? Trước khi chết không lo chiến đấu, mà hô khẩu hiệu để lộ mục tiêu ẩn núp cho địch bắn chết? Nếu sau khi bị bắn với viên đạn vào trán thì có còn thở được không chứ đừng nói là hô to. Viên đạn ở trán cũng giống như phát súng ân huệ của người chỉ huy bắn vào đầu tội phạm nơi pháp trường.
5. Nét bút thật của Đặng Thùy Trâm
5.1.- NÉT BÚT:
Dựa vào sự khác biệt của lối bỏ dấu, sự khác biệt của chữ G, chữ N, phong cách viết, người viết tìm thấy có sáu nét chữ khác biệt trong nhật ký như sau:
Nét bút của người thứ hai
5.1.2. Người thứ hai: có nét chữ nắn nót, chữ G thường đá cao lên đầu, có chữ ký cũng khác biệt chữ ký của DTT. Mặc dù đương sự cố bắt chước theo nhưng vẫn thấy rõ nét khác biệt, sau đây là toàn bộ nét chữ và vị trí viết của người thứ hai.
5.1.3. Người thứ ba: Xem lại BT7 có chữ XHCN được viết ở dưới địa chỉ trang cuối của quyển 1. Đặc biệt nét nút này viết cẩu thả, chữ g đi thẳng xuống không hề đá lên như của DTT và người thứ hai.
5.1.4 Người thứ tư: là người vẽ hình bìa trang đầu quyển 2. Chữ T hoa (Xuân Canh Tuất) của người này hoàn toàn khác các người trên. Nét chữ còn vụng về, không vững chải).
5.1.5 Người thứ năm: Nét bút của lá thư Khiêm dán vào Nhật Ký
5.1.6 Người thứ sáu: Nét bút lá thư của Thuận dán vào Nhật ký.
5.1.7.- DTT: Tác giả đã viết nội dung chính của nhật ký và câu đầu tiên của trang thứ nhất quyển 1
BT.1 Nét bút DTT ở trang 1 quyển 1
BT2 Nét bút DTT ở những trang trong nhật ký
BT.3: trang 1 quyển 2: Cùng nội dung với (BT1) nhưng nét bút và chữ ký hoàn toàn khác.
BT.4: bên trái trang 1 quyển 1
BT.5: trang 2 quyển 1
BT.6: trang 3 quyển 1
Loại ra nét chữ của DTT và hai lá thư được dán vào, còn lại 3 nét chữ của ai?
NGƯỜI THỨ HAI là ai? Đây là người đã 7 lần viết vào nhật ký DTT
Người viết dùng phương pháp loại suy và đi ngược thời gian đi tìm dấu vết của người thứ hai như sau:
•Chữ ký ở trang ngày 1.2-.70 (BT.8) chỉ có thể ký sau ngày này khi trang nhật ký đã được viết.
•Những dòng địa chỉ ở trang cuối quyển 1 (BT.7) phải được ghi sau ngày kết thúc nhật ký 04-12-69 và trước ngày 15-01-70 (là ngày bị mất nhật ký) (Điểm suy luận này sẽ được xét lại ở phần sau)
•Dòng chữ “Đời phải trải qua giông tố nhưng chớ cúi đầu trước giống tố ở trang 3 quyển 1 (BT.6) giống câu DTT ghi nhật ký ngày 30-6-1968. Vậy ai đã sao chép của ai? Ở đây có thể phân tích hai trường hợp:
-Trường hợp 1: DTT sao chép của người thứ hai, tức là nét chữ ở trang 3 quyển 1 (BT.6) phải được viết trước ngày 30-6-68 là ngày ghi nhật ký.
-Trường hợp người thứ hai sao chép của DTT, tức là nét chữ này ghi sau ngày 30-6-68 và trước ngày mất nhật ký 15.01.70
•Dòng chữ “Những ngày rực lửa, vui buồn tràn ngập giữa tim ta” của DTT (BT.1) trang 1 quyển 1 được người thứ hai chép sai lại ở trang 1 quyển 2 (BT.3)
•Người thứ hai đã 4 lần viết vào nhật ký, với nội dung vay mượn của Hoàng văn Thụ (BT.9), N.A. OSTROTSKY (BT.5), và DTT (BT.3 và BT.6). Chứng tỏ người thứ hai không có bản lĩnh sáng tạo hay nói cách khác trình độ rất kém xa DTT. Chỉ có khoa trương bề ngoài qua nắn nót chữ viết thôi.
•Tên DTT (BT.4) có thể viết cùng một ngày viết địa chỉ (BT.7).
•Quyển 2 nhật ký luôn luôn ở bên mình DTT từ ngày viết cho đến khi chết thế mà đã có nét bút người thứ hai. Vậy người thứ hai viết lúc nào. Có hai giả thiết:
-Được thêm vào sau khi DTT đã chết thì người thứ hai là lính Mỹ hay Nguyễn Trung Hiếu. Nhưng hai người này làm sao biết được tên cha, mẹ và địa chỉ của DTT để viết vào trang cuối quyển 1 (BT.7). Vì nét chữ địa chỉ và nét chữ trang đầu quyển 2 đều của người thứ 2. Vậy giả thiết này không vững.
-Người thứ hai đã viết vào nhật ký lúc DTT còn sống, và biết rõ lý lịch DTT không ai khác hơn là người trong đơn vị, có thẩm quyền đọc nhật ký, kiểm tra mọi hành vi của DTT. Đây có phải là một sự xúc phạm nhân phẩm xen vào đời tư người khác không?
Ngoài ra còn một nghi vấn nữa, tại sao DTT khi viết nhật ký lại chừa 7 trang giấy trắng (tức là 4 trang đầu của bản copy) ? là một điều bất thường trong tình hình khan hiếm giấy mực của thời chiến tranh. Trong khi quyển thứ 2 chỉ chừa lại 2 trang đầu như thường lệ.
NGƯỜI THỨ BA và THỨ TƯ chỉ xuất hiện một lần trong nhật ký, không đóng vai trò quyết định, cũng không loại trừ hai người này là một. Họ là ai mà có thể ghi vào nhật ký?
Như vậy chỉ có người thứ hai đã nhiều lần đọc nhật ký DTT, nhiều lần ghi chép vào nhật ký, thậm chí lại còn biết rõ tên cha mẹ, địa chỉ của từng người để viết vào nhật ký. Trong thời gian này DTT không có người yêu, cũng không có người thân gia đình. Thì chỉ có thể kết luận người thứ hai là người có thẩm quyền nắm sinh mạng chính trị của DTT. Đó là bí thư chi bộ hay chính trị viên đơn vị. Và người này đã cho lệnh DTT viết nhật ký với điều kiện chừa lại 7 trang đầu để đơn vị kiểm duyệt, và mỗi lần ghi vào nhật ký là đánh dấu một lần kiểm tra?
Tổng hợp nội dung hai phần 4 và 5.1 người viết có thể tạm đúc kết câu chuyện dàn dựng như sau: Vào thời kỳ sau 1968 phong trào phản chiến Mỹ lên cao, các đơn vị Việt Cọng được mật lệnh khuyến khích viết nhật ký (theo xác nhận của Thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu với báo Tuổi Trẻ là có 40% lính CS viết Nhật ký), dưới sự giám sát theo dõi của Đảng. Sự kiện viết nhật ký này có ba tác dụng : 1- Kiểm soát tư tưởng đảng viên . 2- Nếu đảng viên chết thì đem nhật ký này về động viên gia đình . 3- Nếu nhật ký có giá trị tuyên truyền phản chiến thì được Mỹ ăn cướp(?)sau khi đã cắt xén hoặc thêm bớt theo nhu cầu cuộc chiến.
Nhật ký DTT đã từng bị kiểm duyệt và được đánh giá có thể sử dụng theo tác dụng thứ ba là làm tài liệu tuyên truyền. Do vậy đơn vị (Đảng) đã đánh cắp nhật ký DTT, gởi thượng cấp phê duyệt, nghiên cứu hơn một năm sau mới được chấp thuận cho làm tài liệu tuyên truyền. Sau đó người đạo diễn chính là người thứ hai viết tên địa chỉ nơi làm việc cha mẹ DTT vào nhật ký trước khi bố trí cho Hiếu nhặt được cuốn nhật ký này? Trước đó Hiếu đã từng bị lợi dụng Hiếu được rỉ tai là nhật ký có lửa, rồi Hiếu báo lại cho Fred biết về nhật ký của DTT, chứ thật sự Hiếu chưa hề đọc trước nhật ký DTT.
Ở đây còn có một nghi vấn nữa tại sao lại không ghi địa chỉ cư trú của gia đình DTT, mà lại ghi rỏ tên cha, mẹ và hai địa chỉ làm việc của họ? Theo lời khai của gia đình Cha DTT tiểu tư sản lý lịch không rõ ràng, đến chết chưa được vào đảng dù là chuyên viên giải phẫu xuất sắc. Mẹ là dược sĩ, đối tượng đảng sau 30 năm mới được kết nạp. Vào thời điểm DTT vào miền Nam cha mẹ của DTT ở trong diện lý lịch không rõ ràng, nằm trong thành phần nghi ngờ, (thành phần có vấn đề). Vì thế sự tiết lộ tên cha mẹ địa chỉ làm việc trong nhật ký đã được tính toán kỹ như là một cái bẩy chờ bắt cá cả ổ, nếu cha mẹ DTT có sơ hở gì sau khi nhật ký DTT rơi vào tay địch mà thôi.
5.2.- NHẬT KÝ LÀ GÌ?:
Với tự điển trên tay bạn đọc có thể tìm thấy câu trả lời dễ dàng, thế nhưng đối với DTT nhật ký lại mang ý nghĩa khác. Và sau đây có thể là một trong những câu trả lời đó:
5.2.1.- LÀ NHỮNG CHUYỆN HƯ CẤU
Theo Nguyễn Bình “Đọc Nhật ký DTT” - Đàn Chim Việt:
Trước hết về cái chết của Khiêm. Trong nhật ký đề ngày 14.8.68 DTT viết “ Khiêm đã chết rồi! Trong một buổi càn giặc Mỹ đã tìm thấy công sự của Khiêm. Chúng mở nắp công sự, Khiêm vọt lên dùng quả lựu đạn duy nhất trong tay quăng vào lũ giặc. Bọn quỷ khát máu sợ hãi nằm rạp xuống. Khiêm chạy được một đoạn nhưng quả lựu đạn chó chết đã câm, bọn giặc chồm dậy đuổi theo Khiêm và đến băm nát người Khiêm. Khiêm chết rồi, đôi mắt đen dịu hiền giờ đây mở trừng căm giận. Mái tóc đen xanh của Khiêm giờ đây đẫm máu và bụi cát.. Chiếc áo Ninfan màu xám giờ đây rách nát và loang lổ máu“Đọc đoạn trên chúng ta có cảm tưởng là DTT đang trốn ở đâu đó, gần nơi Khiêm bị giết. DTT đã mô tả rất rõ ràng từng chi tiết.
Nhưng đọc tiếp thì mình mới thấy “nghe tin..” tức là do người khác kể lại! Vậy ai đã khiếp nhược nằm trốn để chứng kiến cảnh “đồng chí” của mình bị giết, hay đó là óc tưởng tượng của DTT. Vì chỉ có DTT thì mới có thể nhìn và nhận ra chiếc áo “ Ninfan màu xám” đầy
Dựa vào sự khác biệt của lối bỏ dấu, sự khác biệt của chữ G, chữ N, phong cách viết, người viết tìm thấy có sáu nét chữ khác biệt trong nhật ký như sau:
Nét bút của người thứ hai
5.1.2. Người thứ hai: có nét chữ nắn nót, chữ G thường đá cao lên đầu, có chữ ký cũng khác biệt chữ ký của DTT. Mặc dù đương sự cố bắt chước theo nhưng vẫn thấy rõ nét khác biệt, sau đây là toàn bộ nét chữ và vị trí viết của người thứ hai.
5.1.3. Người thứ ba: Xem lại BT7 có chữ XHCN được viết ở dưới địa chỉ trang cuối của quyển 1. Đặc biệt nét nút này viết cẩu thả, chữ g đi thẳng xuống không hề đá lên như của DTT và người thứ hai.
5.1.4 Người thứ tư: là người vẽ hình bìa trang đầu quyển 2. Chữ T hoa (Xuân Canh Tuất) của người này hoàn toàn khác các người trên. Nét chữ còn vụng về, không vững chải).
5.1.5 Người thứ năm: Nét bút của lá thư Khiêm dán vào Nhật Ký
5.1.6 Người thứ sáu: Nét bút lá thư của Thuận dán vào Nhật ký.
5.1.7.- DTT: Tác giả đã viết nội dung chính của nhật ký và câu đầu tiên của trang thứ nhất quyển 1
BT.1 Nét bút DTT ở trang 1 quyển 1
BT2 Nét bút DTT ở những trang trong nhật ký
BT.3: trang 1 quyển 2: Cùng nội dung với (BT1) nhưng nét bút và chữ ký hoàn toàn khác.
BT.4: bên trái trang 1 quyển 1
BT.5: trang 2 quyển 1
BT.6: trang 3 quyển 1
Loại ra nét chữ của DTT và hai lá thư được dán vào, còn lại 3 nét chữ của ai?
NGƯỜI THỨ HAI là ai? Đây là người đã 7 lần viết vào nhật ký DTT
Người viết dùng phương pháp loại suy và đi ngược thời gian đi tìm dấu vết của người thứ hai như sau:
•Chữ ký ở trang ngày 1.2-.70 (BT.8) chỉ có thể ký sau ngày này khi trang nhật ký đã được viết.
•Những dòng địa chỉ ở trang cuối quyển 1 (BT.7) phải được ghi sau ngày kết thúc nhật ký 04-12-69 và trước ngày 15-01-70 (là ngày bị mất nhật ký) (Điểm suy luận này sẽ được xét lại ở phần sau)
•Dòng chữ “Đời phải trải qua giông tố nhưng chớ cúi đầu trước giống tố ở trang 3 quyển 1 (BT.6) giống câu DTT ghi nhật ký ngày 30-6-1968. Vậy ai đã sao chép của ai? Ở đây có thể phân tích hai trường hợp:
-Trường hợp 1: DTT sao chép của người thứ hai, tức là nét chữ ở trang 3 quyển 1 (BT.6) phải được viết trước ngày 30-6-68 là ngày ghi nhật ký.
-Trường hợp người thứ hai sao chép của DTT, tức là nét chữ này ghi sau ngày 30-6-68 và trước ngày mất nhật ký 15.01.70
•Dòng chữ “Những ngày rực lửa, vui buồn tràn ngập giữa tim ta” của DTT (BT.1) trang 1 quyển 1 được người thứ hai chép sai lại ở trang 1 quyển 2 (BT.3)
•Người thứ hai đã 4 lần viết vào nhật ký, với nội dung vay mượn của Hoàng văn Thụ (BT.9), N.A. OSTROTSKY (BT.5), và DTT (BT.3 và BT.6). Chứng tỏ người thứ hai không có bản lĩnh sáng tạo hay nói cách khác trình độ rất kém xa DTT. Chỉ có khoa trương bề ngoài qua nắn nót chữ viết thôi.
•Tên DTT (BT.4) có thể viết cùng một ngày viết địa chỉ (BT.7).
•Quyển 2 nhật ký luôn luôn ở bên mình DTT từ ngày viết cho đến khi chết thế mà đã có nét bút người thứ hai. Vậy người thứ hai viết lúc nào. Có hai giả thiết:
-Được thêm vào sau khi DTT đã chết thì người thứ hai là lính Mỹ hay Nguyễn Trung Hiếu. Nhưng hai người này làm sao biết được tên cha, mẹ và địa chỉ của DTT để viết vào trang cuối quyển 1 (BT.7). Vì nét chữ địa chỉ và nét chữ trang đầu quyển 2 đều của người thứ 2. Vậy giả thiết này không vững.
-Người thứ hai đã viết vào nhật ký lúc DTT còn sống, và biết rõ lý lịch DTT không ai khác hơn là người trong đơn vị, có thẩm quyền đọc nhật ký, kiểm tra mọi hành vi của DTT. Đây có phải là một sự xúc phạm nhân phẩm xen vào đời tư người khác không?
Ngoài ra còn một nghi vấn nữa, tại sao DTT khi viết nhật ký lại chừa 7 trang giấy trắng (tức là 4 trang đầu của bản copy) ? là một điều bất thường trong tình hình khan hiếm giấy mực của thời chiến tranh. Trong khi quyển thứ 2 chỉ chừa lại 2 trang đầu như thường lệ.
NGƯỜI THỨ BA và THỨ TƯ chỉ xuất hiện một lần trong nhật ký, không đóng vai trò quyết định, cũng không loại trừ hai người này là một. Họ là ai mà có thể ghi vào nhật ký?
Như vậy chỉ có người thứ hai đã nhiều lần đọc nhật ký DTT, nhiều lần ghi chép vào nhật ký, thậm chí lại còn biết rõ tên cha mẹ, địa chỉ của từng người để viết vào nhật ký. Trong thời gian này DTT không có người yêu, cũng không có người thân gia đình. Thì chỉ có thể kết luận người thứ hai là người có thẩm quyền nắm sinh mạng chính trị của DTT. Đó là bí thư chi bộ hay chính trị viên đơn vị. Và người này đã cho lệnh DTT viết nhật ký với điều kiện chừa lại 7 trang đầu để đơn vị kiểm duyệt, và mỗi lần ghi vào nhật ký là đánh dấu một lần kiểm tra?
Tổng hợp nội dung hai phần 4 và 5.1 người viết có thể tạm đúc kết câu chuyện dàn dựng như sau: Vào thời kỳ sau 1968 phong trào phản chiến Mỹ lên cao, các đơn vị Việt Cọng được mật lệnh khuyến khích viết nhật ký (theo xác nhận của Thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu với báo Tuổi Trẻ là có 40% lính CS viết Nhật ký), dưới sự giám sát theo dõi của Đảng. Sự kiện viết nhật ký này có ba tác dụng : 1- Kiểm soát tư tưởng đảng viên . 2- Nếu đảng viên chết thì đem nhật ký này về động viên gia đình . 3- Nếu nhật ký có giá trị tuyên truyền phản chiến thì được Mỹ ăn cướp(?)sau khi đã cắt xén hoặc thêm bớt theo nhu cầu cuộc chiến.
Nhật ký DTT đã từng bị kiểm duyệt và được đánh giá có thể sử dụng theo tác dụng thứ ba là làm tài liệu tuyên truyền. Do vậy đơn vị (Đảng) đã đánh cắp nhật ký DTT, gởi thượng cấp phê duyệt, nghiên cứu hơn một năm sau mới được chấp thuận cho làm tài liệu tuyên truyền. Sau đó người đạo diễn chính là người thứ hai viết tên địa chỉ nơi làm việc cha mẹ DTT vào nhật ký trước khi bố trí cho Hiếu nhặt được cuốn nhật ký này? Trước đó Hiếu đã từng bị lợi dụng Hiếu được rỉ tai là nhật ký có lửa, rồi Hiếu báo lại cho Fred biết về nhật ký của DTT, chứ thật sự Hiếu chưa hề đọc trước nhật ký DTT.
Ở đây còn có một nghi vấn nữa tại sao lại không ghi địa chỉ cư trú của gia đình DTT, mà lại ghi rỏ tên cha, mẹ và hai địa chỉ làm việc của họ? Theo lời khai của gia đình Cha DTT tiểu tư sản lý lịch không rõ ràng, đến chết chưa được vào đảng dù là chuyên viên giải phẫu xuất sắc. Mẹ là dược sĩ, đối tượng đảng sau 30 năm mới được kết nạp. Vào thời điểm DTT vào miền Nam cha mẹ của DTT ở trong diện lý lịch không rõ ràng, nằm trong thành phần nghi ngờ, (thành phần có vấn đề). Vì thế sự tiết lộ tên cha mẹ địa chỉ làm việc trong nhật ký đã được tính toán kỹ như là một cái bẩy chờ bắt cá cả ổ, nếu cha mẹ DTT có sơ hở gì sau khi nhật ký DTT rơi vào tay địch mà thôi.
5.2.- NHẬT KÝ LÀ GÌ?:
Với tự điển trên tay bạn đọc có thể tìm thấy câu trả lời dễ dàng, thế nhưng đối với DTT nhật ký lại mang ý nghĩa khác. Và sau đây có thể là một trong những câu trả lời đó:
5.2.1.- LÀ NHỮNG CHUYỆN HƯ CẤU
Theo Nguyễn Bình “Đọc Nhật ký DTT” - Đàn Chim Việt:
Trước hết về cái chết của Khiêm. Trong nhật ký đề ngày 14.8.68 DTT viết “ Khiêm đã chết rồi! Trong một buổi càn giặc Mỹ đã tìm thấy công sự của Khiêm. Chúng mở nắp công sự, Khiêm vọt lên dùng quả lựu đạn duy nhất trong tay quăng vào lũ giặc. Bọn quỷ khát máu sợ hãi nằm rạp xuống. Khiêm chạy được một đoạn nhưng quả lựu đạn chó chết đã câm, bọn giặc chồm dậy đuổi theo Khiêm và đến băm nát người Khiêm. Khiêm chết rồi, đôi mắt đen dịu hiền giờ đây mở trừng căm giận. Mái tóc đen xanh của Khiêm giờ đây đẫm máu và bụi cát.. Chiếc áo Ninfan màu xám giờ đây rách nát và loang lổ máu“Đọc đoạn trên chúng ta có cảm tưởng là DTT đang trốn ở đâu đó, gần nơi Khiêm bị giết. DTT đã mô tả rất rõ ràng từng chi tiết.
Nhưng đọc tiếp thì mình mới thấy “nghe tin..” tức là do người khác kể lại! Vậy ai đã khiếp nhược nằm trốn để chứng kiến cảnh “đồng chí” của mình bị giết, hay đó là óc tưởng tượng của DTT. Vì chỉ có DTT thì mới có thể nhìn và nhận ra chiếc áo “ Ninfan màu xám” đầy
"
http://vannghecuocsong.com/vi/news/Van/Tra-loi-cac-cu-dan-mang-binh-loan-ve-Nhung-phu-thuy-Van-no-Thai-Doan-Hieu-1798/
---
Bổ sung 1 (30/5/2015):
Bài của Thiên Đức mà Thái Doãn Hiểu đã sử dụng. Nguyên văn:
"
"
http://batkhuat.net/bl-dtt-sanpham-doitra.htm
---
Bổ sung 1 (30/5/2015):
Bài của Thiên Đức mà Thái Doãn Hiểu đã sử dụng. Nguyên văn:
"
“Nhật Ký Đặng Thùy Trâm”: Sản Phẩm Dối Trá, Phản Bội
THIÊN ĐỨC
1.- NGUỒN:
Cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm của nhà xuất bản hội nhà văn được độc giả trong và ngoài nước chú ý, toàn bộ hệ thống báo chí Việt Nam thậm chí cả guồng máy chính quyền đều đề cao tán dương như là một điển hình anh hùng cho thế hệ trẻ Việt Nam, trong lúc đó lại có nhiều tranh cải tính xác thật của nhật ký trên các diễn đàn BBC, Talawas, Đàn Chim Việt.... Đâu là sự thật? người viết bắt đầu đi tìm nguồn tài liệu ở diễn đàn BBC, mở bài “Không xuyên tạc Nhật Ký Đặng Thùy Trâm” bấm vào tựa bên phải “Nhật ký Đặng Thùy Trâm bản gốc và bản in”. ( có thể trực tiếp vào trang web: http://annonymous.online.fr/Upload/Nhat%20ky%20Dang%20Thuy%20Tram/
Sau cùng, người viết đã có đầy đủ 3 tập tài liệu sau đây:
1)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 1
2)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 2
Hai bản này gọi là bản GỐC (viết tắt BG)
3)- Bản in thực tế của NXB Hội Nhà Văn. Viết tắt nkdtt .
(Chú ý bản in ở trên internet chỉ là những trích đoạn, không có giá trị để đối chiếu)
Mở đầu nhật ký bản in, nhà xuất bản cho biết (tr. 7): Trong quá trình biên soạn và chỉnh lý, chúng tôi cố gắng tôn trọng nguyên bản câu văn cũng như những thói quen dùng từ và ngữ pháp của tác giả - chỉ sửa lại một số từ địa phương hoặc lược bớt những từ trùng lặp..
Theo đài BBC, ông Vương Trí Nhàn, xác nhận ông chỉ tham gia ở khâu cuối cùng và về mặt kỹ thuật nhiều hơn nội dung. Bà Đặng Kim Trâm, em út của bà Đặng Thùy Trâm là người chủ biên, quyết định nội dung phần ra mắt công chúng. Theo ông Nhàn rằng bà Kim Trâm khẳng định bà dám chịu trách nhiệm và không sợ thách thức của dư luận.
Bà Đặng Kim Trâm đã tái xác nhận trong cuộc phỏng vấn với đài BBC ngày 15-10-2005 “ Ban đầu tôi e ngại là các ý nghĩ quá đỏ có thể không phù hợp với giới trẻ bây giờ. Nhưng khi tự tay đánh máy cuốn sách tôi thấy không thể bỏ đi một câu nào....”
Kết quả đối chiếu sau đây đã cho thấy lời nói không đi đôi với việc làm.
2.- ĐỐI CHIẾU:
2.1- BẢN GỐC:
Bản viết tay quyển 1 có 118 trang quyển 2 có 28 trang.
Nhật ký được viết từ ngày 8-4-68 đến ngày 20-6-70. Một ngày viết một đoạn ngắn, nhật ký có được 276 đoạn. Nhật ký bản gốc được trình bày theo thứ tự thời gian và diễn tiến sự việc.
2.2.- BẢN IN của Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn (nkdtt)
Bản in gồm 322 trang, đặt mua tại nhà sách lớn của quận Cam , Cali vào giữa tháng 11-2005, sau khi chờ đợi 3 tuần mới có được quyển sách từ Việt Nam gởi sang. Trang đầu ghi Đặng Kim Trâm chỉnh lý, Vương Trí Nhà giới thiệu. Trang cuối ghi Biên tập : Vương Trí Nhàn. In 20.000 cuốn, Số đăng ký..... cấp ngày 5.7.2005... nộp lưu chiểu quý IV-2005. Không thấy ghi lần tái bản. Như vậy từ khi cuốn sách xuất bản vào tháng 7 cho đến nay khoảng 4 tháng chưa có tái bản lần nào (?).
Cảm nhận đầu tiên khi so sánh, đối chiếu bản in nkdtt với bản gốc, người viết có cảm giác cuốn sách được xuất bản một cách vội vàng phục vụ nhu cầu chính trị hơn là phục vụ độc giả vì rằng trong cuốn sách có những lỗi sơ đẳng nhất là đánh máy lộn ngày tháng hay những đoạn trên đưa xuống đoạn dưới mà người đánh máy biết rõ mà không chịu sửa chữa vì với máy computer hiện nay dùng lệnh cut, past điều chỉnh rất dễ dàng khi người đánh máy bị nhầm lẫn. Nhưng tại sao lại không làm?
2.2.1.- NHẦM LẪN NGÀY THÁNG: Nhiều ngày ghi nhật ký đã bị đổi thay hay sáp nhập với nhau nên khó so chiếu với bản gốc.
... 68 là ngày 15-4-68 (bg), 27-7- 68 là 28-7-68 (bg), 19-11-68 là 11-11-68 (bg), 8-3-69 là 3-3-69 (bg), 9-3-69 là 9-3-69 cọng thêm 11-3-69 (bg), 8-1-70 là 3-1-70(bg), ngày 29-3-70 gộp 2 ngày 28-3-70 và 29-3-70 (bg)
2.2.2.- ĐOẠN VĂN BỊ XÁO TRỘN VÀ CẮT XÉN
9-3-69 (tr. 132)
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở đây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.
[(bg) ngày 11-3-69
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở dây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là một người thương binh nặng, bàn tay dập nát mà vẫn cười lạc quan tin tưởng.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.]
2.3.3.- NHỮNG ĐOẠN VĂN BỊ CẮT XÉN
Ngoài những sửa chữa thay đổi vài từ ngữ có tính cách kỹ thuật, người viết tìm thấy có đến 21 đoạn nhật ký bị cắt xén, ảnh hưởng đến nội dung như sau:
2-6-68 Mất đoạn cuối
Tr.53 tiếp theo dòng cuối trang .... đó là một cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng lạc hậu và tiến bộ. [”bg): Tư tưởng lạc hậu là của những người còn mang những tàn dư của tư tưởng phi vô sản và tư tưởng tiến bộ là của những người đang phấn đấu vì sự nghiệp chung. Quy luật đó là lẽ tất nhiên. “]
12-5-69 thiếu đoạn cuối
Tr.151 tiếp câu cuối .... nhưng với anh Long thì đúng như vậy. [(bg) Nằm nói chuyện với anh nghe anh kể về những ngày công tác của anh mình thốt lên “Giá mà em được ở gần anh em sẽ học được bao nhiêu điều hay” được về công tác với anh đó là một mong ước rất thành thực. Nếu vừa rồi không có sự thay đổi trong biên chế chắc điều đó đã thực hiện rồi.]
18-5-69
Tr.152 ... chừng nào ... [ (bg) ... Cả miền Nam đang tấn công, trên suốt dải đất mênh mông này ở đâu lại chẳng có các anh? Đâu chẳng có bàn chân những người trai dũng cảm.
Tôi biết trong các anh có rất nhiều và rất nhiều người quê ngoài XHCN . Các anh có nhiều người cũng mới từ những ngày hòa bình bước vào cảnh lửa đạn này. Hôm nọ, gặp mấy chàng trinh sát trẻ măng nước da trắng dưới lớp lông măng trên má, chắc rằng đó là những học sinh cấp hai mới rời cây bút để nhận khẩu súng lên đường đi chống Mỹ cứu nước.]
.... Vậy đó, cả nước đã lên đường,[ (bg) cả nước đang lăn mình trong cuộc chiến đâu nhất định phải dánh thắng giặc Mỹ xâm lược nhất định phải trả về cho chúng ta những ngày độc lập tự do.]
25-6-69 thiếu 2 câu
tiếp dòng thứ 2 trang 162... như Paven trong trường hợp đó . [(bg) Cuộc chiến này biết mấy gian lao, chúc Th. đứng vững bên cương vị của người Cộng Sản...]
16-7-69 16-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.168...” Lối đó là lối bà già vợ thằng Hùng đó”. [(bg) Ôi! những người dân Việt Nam anh hùng, có lẽ trên trái đất này không ai chịu nhiều khổ đau như mỗi người dân miền Nam anh dũng.]
26-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.172 cuối trang.... mà chị đêm ngày thương nhớ thiết tha. [(bg) Con đường em đi những bước đi còn chập chững nhưng chông gai gian khổ đầy nước mắt. Chúc em đi những bước vững vàng.]
6-8-69 thiếu đoạn cuối
Tr.179 cuối trang.... Chắc không thể có nụ cười và tiếng đàn sôi nổi ấy. [(bg) Ôi! Cuộc cách mạng ở mảnh đất này mới kỳ lạ làm sao, đau thương tang tóc ở đâu bẵng và lạc quan sôi nổi cũng không đâu bằng.]
1-9-69 thiếu đoạn cuối
\
Tr.187 cuối trang .... Không hiểu anh Sơ có biết rằng trong câu gửi gắm ấy có tình người anh lo cho đứa em gái hay không. [(bg) Anh Năm ơi, anh đi bình an nhé, em sẽ đón anh trở về trong niềm vui và tình thương sâu dậm của một đứa em gái.]
1-11-69 thiếu một hàng cuối
Tr.195 ... Anh đi bình an và mau về nghe anh. [(bg) người anh thân thương rất đỗi!]
5-11-69 thiếu đoạn cuối
Tr.196 .... con cháu nheo nhóc ở vào đâu? [(bg) Ôi! Giặc Mỹ chồng bao tội ác của bay đã chất đầy như núi. Còn sống ngày nào tao thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để trả được mối thù vạn kiếp đó.]
26-02-70 Thiếu đoạn cuối
Tr. 228 ... Tình thương của mình bỗng dột xuất mà sôi nổi lạ lùng. [(bg) Tuy nhiên lúc em ra về mình cũng chỉ căn dặn em cảnh giác cố gắng tập cho cánh tay mau bình phục rồi nhìn em bằng đôi mắt trìu mến. Thôi, đi nghe em, chúc em khỏe mau trở về với đội ngũ chiến đấu.]
27-02-70 Thiếu mất hai đoạn
Cuối Tr.228. Phải chăng vì Thuận đã làm được những điều trên?
[(Bg) Tất nhiên trong bước đường đi không ai không vấp phải khuyết điểm. Mình không hề sợ khuyết điểm, cái gì sai thì cố gắng khắc phục, cái gì đúng cố gắng phát huy không theo đuôi quần chúng, không độc đoán quan liêu, không vì sợ mất lòng mà bỏ nguyên tắc. Trước khi làm một việc gì phải cân nhắc kỹ không hướng mình đang đứng trong vai trò của một diễn viên trên sân khấu bao nhiêu đôi mắt khán giả đang nhìn, mình làm được điều đó là dĩ nhiên vì mình là một diễn viên, họ chỉ khen khi nào mình thật xuất sắc (mà điều đó thì mình chưa thể làm được). Nếu mình làm còn thiếu sót họ sẽ chê, chê nhiều, vậy mà cũng đòi làm diễn viên, dở quá vv và vv...]
Tr. 229 Bao nhiêu năm thoát ly vào sinh ra tử trên chiến trường miền Nam bây giờ lại để nó chỉ huy!...”
[(bg) Không các đồng chí ơi!, tôi làm việc cũng chỉ vì sự nghiệp của cách mang, Đảng giao phó cho tôi, nhưng trách nhiệm quan trọng cũng chỉ vì Đảng muốn tận dụng hết khả năng sức lực của tôi để phục vụ cho Đảng nhiều nhất. Tôi vinh dự vì được tin cậy nhưng không vì vậy mà tôi kiêu căng. Tôi hiểu lắm chứ tuy rằng được học tập trang bị nhiều lý luận trong nhiều năm trên ghế nhà trường nhưng có nhà trường nào lớn bằng trường đại học thực tế đâu? Tôi mới vào đây 3 năm dĩ nhiên không thể bằng những đồng chí đã trải qua 10 năm, 20 năm trên chiến trường gian khổ, cho nên hãy đến với tôi bằng tình thân của những người cùng chung giọt máu để đổ xuống cho đất nước tự do, bằng tình thương của những kẽ xa nhà lấy gia đình cách mạng làm chỗ dựa duy nhất trong cuộc sống. Hãy chỉ bảo giúp đỡ tôi để tôi trở thành một đồng chí phục vụ đắc lực cho Đảng. Phần tôi, tôi tự biết tôi phải làm gì, tự biết năng lực của mình và tự nhủ mình phải khiêm tốn học hỏi thật nhiều mọi người xung quanh.]
8-3-70 thiếu một câu cuối
Tr.233 Phải như Paven, như Ruồi Trâu, hay như M của mình đó. [(bg) Nhất định phải vậy nghe Th.!]
30-3-70 thiếu câu cuối
Tr. 237 ... hãy mạnh dạn mà đi, vững bước mà đi nghe. [(bg) người con gái XHCN trên đất miền Nam]
5-5-70 thiếu hai đoạn
Tr.241 Nhưng tao đã thề cùng các đồng chí của tao rồi, dù có chết cũng quyết đánh cho đến cùng [ (bg) để đánh giập đầu con rắn độc hiếu chiến].
Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột. Tại sao cũng là con người mà lại có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng bào để làm nước tưới cho gốc cây vàng của nó như vậy.
[(bg) bao nhiêu cũng không đủ túi tham, bao nhiêu cũng không thỏa mãn cái cuồng vọng của bọn quỷ khát máu.]
13-5-70 Thiếu đoạn cuối
Tr.243 những dòng chữ của mình vẫn theo em trên khắp chặng đường chiến đấu. [(bg) Em ơi, hãy bồi đắp cho tình cảm chị em mãi mãi thắm thiết như ngày xưa ta sống cùng nhau trên quê hương Phổ Hiệp. Thực ra trong những ngày qua cũng có đôi nét mờ đi trong bức tranh tuyệt đẹp của mối tình cảm ấy vì không biết giữ gìn, lỗi đó ở em hay ở mình.]
19-5-70 Thiếu đoạn cuối.
Tr.246 Vậy ra anh cũng hiểu mình đấy chứ. [(bg) nhưng tại sao vậy hở anh? Tại sao nỗi lo cho mình trước lúc ra đi “là điều lo anh để lên hàng đầu” mà anh lại cũng làm thinh không nói? Tại sao lúc chưa gặp anh mong chờ da diết mà lúc em đến anh lại cũng làm thinh? Ôi người anh thân thiết, anh rất gần mà lại cũng rất xa. Em hiểu anh hết mà rồi lại cũng không hiểu hết (mà chính anh cũng thắc mắc với anh nữa kia mà!) Sao vậy hở anh? ]
4-6-70 thiếu đoạn cuối
Cuối Tr. 247. vì sao ta không thể đến với nhau trong mối quan hệ tốt đẹp và chính đáng đó?
[(bg) Cách mạng miền Nam! Nhiều cái anh hùng, nhiều chuyện lịch sử mà cũng còn nhiều phức tạp, nhiều rác rưởi trong xã hội, cũng dễ hiểu thôi, vì tất cả cho sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước nên ta chưa thể tập trung sức lực để xây dựng con người XHCN, những con người toàn diện, biết sống vì mọi người, biết cách ăn ở và nếp sống có văn hóa.]
2.2.5.- CHÍN NGÀY BỎ SÓT
10-11-68 :
[(bg) Những hoạt động xã hội ngày một mở rộng đối với mình. Đại hội phụ nữ tỉnh mời dự, hội thanh niên giải phóng mời dự nhưng mình không có điều kiện tham gia. Trong cách bố trí sắp xếp kể ra cũng có những điều kiện chưa hợp lý. Một lần nữa mình hiểu thêm về lòng ghen tỵ của người đời, vẫn còn những người không vui khi thấy đồng chí mình tiến lên.
Những phút giây lịch sử trong tình chị em, trong đời người. Hãy nhớ trọn đời nghe em!]
7-12-1968
[(bg) Gặp Thường, rất lâu rồi mới được ngồi bên em nói chuyện cùng em như những ngày công tác dưới đồng bằng. Một năm qua trong xa cách, chị vui sướng thấy rằng mỗi chị em mình đều bước đi những bước trưởng thành và tình chị em cũng đã lớn lên dày dạn với thời gian. Vũng vàng trước sóng gió. Hãy vun xới cho tình cảm ấy lớn lên và lớn mãi lên nghe em!]
23-5-69
[(bg) Về công tác Phổ Cường. Đêm mờ biết bao ở nhà chị Hạnh: “Không bao giờ tự cầm dao cứa đứt mạch máu trong cơ thể mình” Không, thực tế thì có vậy nhưng em thì không có. ]
26-10-69
[(bg) Những ngày sống bên anh có cái gì làm mình cảm thấy quên đi những ngày gian khổ đang đe dọa bên mình. Có phải vì bàn tay ấm áp của anh đã nắm chặt tay mình truyền cho mình sức mạnh để đánh bạt mọi gian khổ hay không? Có phải những ngón tay nhỏ nhắn của anh đã vuốt trên mái tóc mình thân thiết truyền cho mình tình thương ruột thịt làm mình quên đi cái cô đơn của một kẽ xa nhà? Và có phải đôi mắt đen anh đã nhìn mình qua bóng đem và qua cả những phút giây ngắn ngủi giữa mọi người đã nói với mình rằng: “Hãy vững bước nghe em, trên con đường gian khổ nhưng vinh quang mà em đã chọn, bao giờ cũng có các anh giúp đỡ em với tình đồng chí và có anh dìu dắt em trong cánh tay của một người anh”
Cảm ơn anh nghe anh, em sẽ sống xứng đáng làm một đứa em và một người đồng chí của anh, có nghe em nói không hở anh Năm thân thương của em?]
19-01-70
[(bg) Cám ơn anh, người đồng chí thân thương. Anh đã đến với mẹ bằng tình thương chân thành ruột thịt, anh đã là một chỗ dưa trong cuộc sống của em. Cuộc đời thật phức tạp, không biết ở sao cho vừa lòng tất cả được, cũng như anh đã nói: “Đó là lẽ dĩ nhiên, em không bao giờ bi quan khi gặp trở ngại trong bước đường đi lên của mình”. Như bao lần em đã nói cuộc sống là một bức tranh đủ màu sắc, bên cái màu chủ đạo là màu đỏ chiến thắng và mà xanh ước mơ vẫn có thêm màu đen trong tóc màu xám lạnh lùng nham hiểm. Dù sao em cũng vẫn yêu cuộc sống, cuộc sống của những người cách mạng tha thiết tình thương và cháy bỏng niềm tin vào sức mạnh của mình. Anh Năm thân thương, anh tin em chứ? Tin ở đứa em gái của anh nghe anh.]
15-02-70
[(bg) Những ngày sống bên anh, sung sướng cảm thấy tình anh em ngày thêm gắn bó trưởng thành. Em tin anh như tin chính bản thân em. niềm tin ấy giúp em đi lên, đạp bằng mọi chông gai trở lực vươn lên làm chủ cuộc sống của mình. Sung sướng biết bao khi trong bước đi gian khổ, luôn có anh dìu dắt, anh lo cho em từng ly từng tý, anh dạy bảo em với tình một người anh trai với đứa em gái, anh xây dựng cho em với trách nhiệm một bí thư huyện ủy với một đồng chí mới làm công tác Đảng, anh săn sóc em với tình đồng đội cùng chung trong cuộc chiến đấu sinh tử này. Hãy giữ tròn mãi mãi “...trong ngần thiết tha” nghe anh Năm!]
24-3-70
[(bg) Đọc những lá thư của anh càng hiểu càng thương anh vô cùng, anh Năm ạ. Quả thực anh đã lo, đã thương em với tình thương sắt son ruột thịt, anh em ta thường nói với nhau rằng: Dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ trọn tình anh em thủy chung như nhau. Đâu có phải em không tin anh, em thường nói với chính em rằng em tin anh như tin bản thân mình nhưng ngay cả bản thân mình em cũng nhiều lúc không hiểu rằng xử trí như vậy đã đúng chưa. Vì vậy anh đừng trách khi em giận anh. Thực ra cũng có một tình thương sâu đậm nên em mới cảm thấy giận anh, nếu không, một lá thư như vậy, những câu nói như vậy hết sức bình thường với những người khác nhưng với em lại là khác, em đòi hỏi ở anh một sự quan tâm, đòi hỏi ở anh những biểu hiện của một tình thương đằm thắm trong sạch của một người anh trai với đứa em gái cưng của anh. Đòi hỏi ấy có cao không nhỉ? “Anh đã dành tất cả tình thương duy nhất, độc nhất cho em gái anh” Thì như vậy đâu phải là cao. Vậy đó anh à, hãy hiểu em nhiều hơn nữa nghe anh, hiểu cái đứa em gái có trái tim đầy nhiệt tình, đầy ưu ái, niềm tin ở cuộc đời. Em còn dại lắm, em tin người ta dễ dàng mà cuộc đời lại chưa phải đáng để tin như vậy. Mong anh sẽ là người dìu dắt em đi vững bước một trên con đường chông gai nguy hiểm nhưng rất đỗi vinh quang mà anh em mình đã chọn.]
01-4-70
[(bg) Kỷ niệm 10 năm ngày vào Đoàn, 10 năm qua từ một thiếu niên bây giờ Th. đã là một cán bộ dày dạn trong khói lửa. Th. không thể tự hào mà chỉ thấy rằng mình đã làm đúng như lời thề dưới cờ Đoàn trong ngày hôm ấy.
Những đêm dài suy nghĩ, Th. ơi, hãy nghiêm khắc với bản thân hơn nữa, đừng để một câu hỏi làm đau nhói trong Th. Tại sao mọi người không hiểu Th? Mà hãy hỏi: Tại sao Th. lại để mọi người không hiểu mình? Đành rằng có những người không tốt: nhỏ mọn, ghen tuông, kèn cựa nhưng dù họ với tính cách như vậy vẫn có một số người họ không thể nói được. Vậy thì hãy làm như những người đó. Đừng khóc Th. ơi, nước mắt hãy giành cho ngày gặp mặt những người thân yêu. Đêm khuya nằm bên những người đồng đội, họ đã ngủ, hơi thở đều đều, ngoài kia từng tràng pháo nổ dậy trời. Ơi những người đồng chí của tôi, ta đang cùng chung hơi thở giữa chiến trường lửa khói, hãy thương yêu đùm bọc lấy nhau, sống chết kề một bên, ghen tuông kìn cựa để làm gì?]
05-4-70
[(bg) Có phải mình cô đơn mà cảm thấy nhớ thương đến vô cùng hay không hở người anh thân thiết của em? Chiều nay Cúc lên đường về cơ quan phục vụ, bỗng nhiên nỗi buồn nhớ như tăng lên bội phần. Cuộc sống sao mà phức tạp mà sao mình lại làm một con bé sống với trái tim giàu tình cảm như thế này? Tại sao ư? Vì từ nhỏ đến giờ nó là như vậy. Nghe những ý kiến của chị Hạnh cảm thấy buồn lạ lùng. Con người vẫn có những kẻ sống với tầm mắt nhỏ hẹp, họ không thể có được những tình cảm trong sáng chân thành như một số người khác. Với họ chỉ có vật chất, chỉ có xác thịt!! Ôi ghê tởm làm sao. Anh trai của em ơi, có đúng như lời anh đã nói đó không? “Tình anh em ta sẽ tồn tại mãi mãi dù thời gian, không gian biến động thế nào” nghĩa là ta sẽ đàng hoàng thanh bạch mà sống, đạp qua mọi rác rưởi gai góc cản trở đường đi của ta. Em cũng sẽ làm như anh, sẽ thực hiện đúng như lời em đã hứa cùng anh.]
3.- TÁC GIẢ:
Bàn về một tác phẩm mà không tìm hiểu tác giả là một điều thiếu sót không thể tha thứ được cho dù người đó đã nằm xuống. Trong bản gốc của nhật ký không có ghi tiểu sử của tác giả, nhưng theo lời kể của gia đình và nhân chứng trong sách in có thể sơ lượt như sau:
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942
1960-1961: Học sinh lớp 10C trường trung học Chu Văn An Hà Nội.
Năm 1966: Tốt nghiệp bác sĩ mắt Đại học y khoa Hà Nội (?)loại ưu.
Năm 1967: Vào Nam chiến đấu, phụ trách một trạm xá nhỏ ở Đức Phổ Quảng Ngãi.
Chết lúc 17g20 ngày 22-6-1970.
Nhiều người đã đặt nhiều nghi vấn về chức danh bác sỹ của DTT, bởi nguyên do thời gian theo học đại học y khoa khá ngắn ngủi(?)vì vậy người viết phải làm cuộc so sánh như sau:
3.1.- THỜI GIAN: Trước 1975 tại miền Bắc, hệ giáo dục trung học là 10 năm. Đào tạo bác sĩ chỉ có 5 năm (?).Trong khi ở miền Nam hệ trung học là 12 năm, và đại học y khoa thường là 7 năm.
Như vậy ở miền Bắc, một người bác sĩ chỉ mất 15 năm học ở nhà trường. Ở miền Nam phải mất 19 năm.
3.2.- HỌC TRÌNH: Học sinh Miền Nam chỉ thuần túy học về chuyên môn và văn hóa trong suốt thời gian, hoàn toàn không học chính trị hay sinh hoạt đảng phái đoàn thể.
Trong khi đó học sinh miền Bắc phải tốn ước chừng khoảng 1/3 thời gian để học tập chính trị từ sơ cấp đến trung cấp Mác Lê ở bậc đại học, xây dựng chủ nghĩa cộng sản khoa học, đây là những môn thi bắt buộc. Ngoài ra còn phải phấn đấu sinh hoạt ngoại khóa trong phong trào, tranh thủ để trở thành cháu ngoan bác Hồ, đối tượng Đoàn, đối tượng Đảng.
Nếu so sánh một cán sự y tế, hay cán sự điều dưỡng miền Nam được đào tạo 3 năm chuyên môn, với trình độ trung học, tổng cọng thời gian học cũng từ 12 năm trở lên ( 9 năm bằng trung học đệ nhất cấp + 3 năm chuyên môn).Nếu căn cứ vào học trình để kết luận, thì người bác sĩ miền Bắc bị nhồi sọ về chính trị Mác Lê hơn miền Nam. Nhưng chuyên môn và văn hóa người bác sỹ miền Bắc chỉ có trình độ tương đương với một người cán sự y tế trung bình mà thôi, không thể so sánh bằng với bác sỹ miền Nam được. (Trước 1975)
3.3.- CÔNG TÁC THỰC TIỄN: Với trình độ chuyên môn như trên, tốt nghiệp loại ưu (Tr.305) chắc là DTT sẽ đạt nhiều thành tích xuất sắc trong hoạt động chuyên môn của mình. Sau đây là những thành tích của một bác sĩ XHCN rất đáng để chúng ta suy gẫm và đánh giá.
08.04.68 (tr.33)
Mỗ một ca ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn, thuốc giảm đau chỉ còn vài ống Novoraine nhưng người thương binh trẻ không hề kêu la một tiếng, anh còn cười để động viên mình, nhìn nụ cười gượng trên môi khô vì mệt nhọc, mình thương anh vô cùng.
Rất đau xót rằng sự nhiễm trùng trong ổ bụng không do ruột thừa vỡ. Tìm kiếm gần một giờ đồng hồ không thấy nguyên nhân đành đóng lại cho đặt dẫn lưu và đổ kháng sinh trong ổ bụng.
Nỗi băn khoăn của một người thầy thuốc cộng nỗi thương xót mến phục người thương binh ấy làm mình không thể yên lòng, vuốt nhẹ mái tóc anh mình muốn nói với anh rằng: với những người như anh mà tôi không cứu chữa được thì đó sẽ là nỗi đau xót khó mà phai đi trong cuộc đời phục vụ của một người thầy thuốc.
Bác sỹ định bệnh sai, đưa đến chết người
22.04.68 (Tr.41)
... Một ngày mệt nhọc vô cùng, ba ca thương nặng vào một lúc, suốt một ngày đứng bên bàn mổ, đầu óc căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột của chú Công (cha Hường) và vì những tin buồn dồn dập ...
DTT là bác sỹ mắt nhưng làm công việc giải phẫu là chính.
20.07.68 (Tr.64)
... Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi người trong bệnh xá đều hết sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình vừa phụ trách bệnh xá vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng vất vả cũng còn nhiều khó khăn trong công việc nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng, sức lực của mình để cống hiến cho cách mạng....
27.08.68 (Tr.75)
Một ca mổ quan trọng đã kết quả. Thận dập nát đã được may lại, máu ngừng chảy nước tiểu người bệnh nhân ấy đã trong lại bình thường. Lẽ ra niềm vui ấy sẽ tràn trề, một mạng người được cứu sống nhưng sao mình rất bình thản trước nụ cười và đôi mắt cảm phục của người bệnh nhân ấy. Một dòng máu ngừng chảy nhưng bao nhiêu dòng máu đã chảy và đang chảy? ...
05.10.68 (Tr.84)
Một ca tử vong sau phẫu thuật cắt đoạn. Đó là một bệnh nhân gần 66 tuổi nhưng sức còn khỏe, đó là một Đảng viên già đã 23 năm trời liên tục chiến đấu. Gia đình và bệnh xá đã tận tình cứu chữa mà cũng không sao cứu thoát cho ông già. Riêng mình dù tập thể và chính bản thân con trai ông già đã xác định và thừa nhận mình không có lỗi mà chỉ có lòng tận tình cứu chữa nhưng mình vẫn xót xa.
Vì sao ông ta chết? Vì kỹ thuật? Cũng không phải tuy là ca đầu tiên cắt cụt nhưng mình vẫn bình tĩnh vẫn đảm bảo thời gian và kỹ thuật. Vậy thì vì sao? Vì không truyền được lọ plasma? Nhưng sự việc này cũng không biết nói sao, cứ truyền vào đúng ven lại trật ra do ông già quẫy cựa. Buồn vô cùng! Một ca tử vong không đáng tử vong mà lại không rút ra được bài học gì đích đáng cả.
Lần đâu tiên giải phẫu cắt cụt, gây chết người, mà không rút ra được bài học nào cả.
24.10.68 (Tr.91)
Một ca mổ cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điều kiện thô sơ mình cũng đã mỗ thăm dò nhưng rất tiếc rằng cancer đã sang giai đoạn di căn. Không thể làm gì hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót nhìn người bệnh nhân đi dần đến cái chết....
Lại mổ ung thư, gây chết người.
09.01.69 (Tr.115)
... Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt, em nằm im lìm không rên la, một chân đã bị mìn tiêu cụt tơi tả, máu thấm ướt hết áo quần. Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với tình thương, mình đã cùng các đồng chí hết sức cứa chữa cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: “Bây giờ chắc sống 80% rồi đây“
Riêng mình vẫn lo lắng vì Bốn mất máu quá nhiều, mạch vẫn rất nhanh 140-150 nhưng cũng nhiều hy vọng.
Cuối cùng Bốn đã không vượt qua nổi, máu ra nhiều quá nên em không còn đủ sức. Bốn ơi máu em đã thấm đầy trên mảnh đất quê hương, máu em đã chảy dài trên đường em đi chiến đấu....
Cũng cắt cụt gây chết người
15.03.69 (Tr.133)
Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh, anh bị một vết thương xuyên thấu bụng. Sau cuộc mổ tình trạng không tốt mà xấu đến có lẽ vì một sự chảy máu trong do miến mảnh không tìm thấy cọ xát làm đứt một mạch máu nào đó. Sau hội chẩn, ý kiến chung không đồng ý mổ lại. Riêng mình vẫn băng khoăn lưỡng lự.
Cuối cùng anh đã chết. Cái chết của anh làm mình suy nghĩ đến đau đầu. Anh chết vì sao? Vì sự thiếu cương quyết của mình chăng? Rất có thể là như vậy. Nếu mình kiên quyết, ít ra 100% thì hy vọng cứu sống anh có thể có 10%. Mình đã theo đuôi quần chúng, bỏ qua một việc làm nên làm.”
DTT là người có chuyên môn duy nhất trong bệnh xá mà không có quyền quyết định về chuyên môn bằng lãnh đạo quần chúng? Giá trị của lãnh đạo tập thể?
29.07.69 (Tr.174)
Chiến tranh thật tàn khốc hết mức, sáng nay người ta đem đến cho mình một thương binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy, đến với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi ngút cháy trên người nạn nhân....
Tóm lại DTT là một bác sỹ mắt mà đi làm công việc giải phẫu chửa đủ các loại bịnh theo kiểu “không có chó, bắt mèo ăn cứt” từ cắt cụt chân, mổ ruột thừa, vá thận, mổ ung thư dạ dày, chửa bỏng còn nhiều nữa chưa kể hết trong nhật ký này (?)
Trong hơn một năm làm phẫu thuật, gây chết 5 người mà vẫn được khen tặng như sau:
06.10.68 (Tr.85)
Có những lời nữa đùa nữa thật ghen với tình thương mà mọi người đã giành cho mình. Mình cũng suy nghĩ về những lời đùa đó nhưng suy ra cho cùng đâu phải mọi người thương mình vì hai chữ “Bác sỹ”...
1.11.68 (Tr.92)
Tổng kết năm qua, bệnh xá Đức Phổ được báo cáo điển hình trong toàn tỉnh về thành tích điều trị và các mặt khác, và trong số những người xuất sắc ấy có cả mình. Đó là một thắng lợi chung trong đó có mình một chút.
07.04.1969 (Tr.138)
Được rất nhiều thư, niềm vui tràn ngập thư mẹ, thư em, thư bè bạn từ trên khu, trên tỉnh, trên huyện, dưới xã ai ai cũng gửi đến mình lòng thương mến thiết tha.
Những lời khen ít nhiều cũng làm mình sung sướng: “Thùy Trâm đã được mọi người thương, bạn mến, Đảng tin...”, “Thật là một người trí thức toàn diện...”
1.- NGUỒN:
Cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm của nhà xuất bản hội nhà văn được độc giả trong và ngoài nước chú ý, toàn bộ hệ thống báo chí Việt Nam thậm chí cả guồng máy chính quyền đều đề cao tán dương như là một điển hình anh hùng cho thế hệ trẻ Việt Nam, trong lúc đó lại có nhiều tranh cải tính xác thật của nhật ký trên các diễn đàn BBC, Talawas, Đàn Chim Việt.... Đâu là sự thật? người viết bắt đầu đi tìm nguồn tài liệu ở diễn đàn BBC, mở bài “Không xuyên tạc Nhật Ký Đặng Thùy Trâm” bấm vào tựa bên phải “Nhật ký Đặng Thùy Trâm bản gốc và bản in”. ( có thể trực tiếp vào trang web: http://annonymous.online.fr/Upload/Nhat%20ky%20Dang%20Thuy%20Tram/
Sau cùng, người viết đã có đầy đủ 3 tập tài liệu sau đây:
1)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 1
2)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 2
Hai bản này gọi là bản GỐC (viết tắt BG)
3)- Bản in thực tế của NXB Hội Nhà Văn. Viết tắt nkdtt .
(Chú ý bản in ở trên internet chỉ là những trích đoạn, không có giá trị để đối chiếu)
Mở đầu nhật ký bản in, nhà xuất bản cho biết (tr. 7): Trong quá trình biên soạn và chỉnh lý, chúng tôi cố gắng tôn trọng nguyên bản câu văn cũng như những thói quen dùng từ và ngữ pháp của tác giả - chỉ sửa lại một số từ địa phương hoặc lược bớt những từ trùng lặp..
Theo đài BBC, ông Vương Trí Nhàn, xác nhận ông chỉ tham gia ở khâu cuối cùng và về mặt kỹ thuật nhiều hơn nội dung. Bà Đặng Kim Trâm, em út của bà Đặng Thùy Trâm là người chủ biên, quyết định nội dung phần ra mắt công chúng. Theo ông Nhàn rằng bà Kim Trâm khẳng định bà dám chịu trách nhiệm và không sợ thách thức của dư luận.
Bà Đặng Kim Trâm đã tái xác nhận trong cuộc phỏng vấn với đài BBC ngày 15-10-2005 “ Ban đầu tôi e ngại là các ý nghĩ quá đỏ có thể không phù hợp với giới trẻ bây giờ. Nhưng khi tự tay đánh máy cuốn sách tôi thấy không thể bỏ đi một câu nào....”
Kết quả đối chiếu sau đây đã cho thấy lời nói không đi đôi với việc làm.
2.- ĐỐI CHIẾU:
2.1- BẢN GỐC:
Bản viết tay quyển 1 có 118 trang quyển 2 có 28 trang.
Nhật ký được viết từ ngày 8-4-68 đến ngày 20-6-70. Một ngày viết một đoạn ngắn, nhật ký có được 276 đoạn. Nhật ký bản gốc được trình bày theo thứ tự thời gian và diễn tiến sự việc.
2.2.- BẢN IN của Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn (nkdtt)
Bản in gồm 322 trang, đặt mua tại nhà sách lớn của quận Cam , Cali vào giữa tháng 11-2005, sau khi chờ đợi 3 tuần mới có được quyển sách từ Việt Nam gởi sang. Trang đầu ghi Đặng Kim Trâm chỉnh lý, Vương Trí Nhà giới thiệu. Trang cuối ghi Biên tập : Vương Trí Nhàn. In 20.000 cuốn, Số đăng ký..... cấp ngày 5.7.2005... nộp lưu chiểu quý IV-2005. Không thấy ghi lần tái bản. Như vậy từ khi cuốn sách xuất bản vào tháng 7 cho đến nay khoảng 4 tháng chưa có tái bản lần nào (?).
Cảm nhận đầu tiên khi so sánh, đối chiếu bản in nkdtt với bản gốc, người viết có cảm giác cuốn sách được xuất bản một cách vội vàng phục vụ nhu cầu chính trị hơn là phục vụ độc giả vì rằng trong cuốn sách có những lỗi sơ đẳng nhất là đánh máy lộn ngày tháng hay những đoạn trên đưa xuống đoạn dưới mà người đánh máy biết rõ mà không chịu sửa chữa vì với máy computer hiện nay dùng lệnh cut, past điều chỉnh rất dễ dàng khi người đánh máy bị nhầm lẫn. Nhưng tại sao lại không làm?
2.2.1.- NHẦM LẪN NGÀY THÁNG: Nhiều ngày ghi nhật ký đã bị đổi thay hay sáp nhập với nhau nên khó so chiếu với bản gốc.
... 68 là ngày 15-4-68 (bg), 27-7- 68 là 28-7-68 (bg), 19-11-68 là 11-11-68 (bg), 8-3-69 là 3-3-69 (bg), 9-3-69 là 9-3-69 cọng thêm 11-3-69 (bg), 8-1-70 là 3-1-70(bg), ngày 29-3-70 gộp 2 ngày 28-3-70 và 29-3-70 (bg)
2.2.2.- ĐOẠN VĂN BỊ XÁO TRỘN VÀ CẮT XÉN
9-3-69 (tr. 132)
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở đây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.
[(bg) ngày 11-3-69
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở dây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là một người thương binh nặng, bàn tay dập nát mà vẫn cười lạc quan tin tưởng.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.]
2.3.3.- NHỮNG ĐOẠN VĂN BỊ CẮT XÉN
Ngoài những sửa chữa thay đổi vài từ ngữ có tính cách kỹ thuật, người viết tìm thấy có đến 21 đoạn nhật ký bị cắt xén, ảnh hưởng đến nội dung như sau:
2-6-68 Mất đoạn cuối
Tr.53 tiếp theo dòng cuối trang .... đó là một cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng lạc hậu và tiến bộ. [”bg): Tư tưởng lạc hậu là của những người còn mang những tàn dư của tư tưởng phi vô sản và tư tưởng tiến bộ là của những người đang phấn đấu vì sự nghiệp chung. Quy luật đó là lẽ tất nhiên. “]
12-5-69 thiếu đoạn cuối
Tr.151 tiếp câu cuối .... nhưng với anh Long thì đúng như vậy. [(bg) Nằm nói chuyện với anh nghe anh kể về những ngày công tác của anh mình thốt lên “Giá mà em được ở gần anh em sẽ học được bao nhiêu điều hay” được về công tác với anh đó là một mong ước rất thành thực. Nếu vừa rồi không có sự thay đổi trong biên chế chắc điều đó đã thực hiện rồi.]
18-5-69
Tr.152 ... chừng nào ... [ (bg) ... Cả miền Nam đang tấn công, trên suốt dải đất mênh mông này ở đâu lại chẳng có các anh? Đâu chẳng có bàn chân những người trai dũng cảm.
Tôi biết trong các anh có rất nhiều và rất nhiều người quê ngoài XHCN . Các anh có nhiều người cũng mới từ những ngày hòa bình bước vào cảnh lửa đạn này. Hôm nọ, gặp mấy chàng trinh sát trẻ măng nước da trắng dưới lớp lông măng trên má, chắc rằng đó là những học sinh cấp hai mới rời cây bút để nhận khẩu súng lên đường đi chống Mỹ cứu nước.]
.... Vậy đó, cả nước đã lên đường,[ (bg) cả nước đang lăn mình trong cuộc chiến đâu nhất định phải dánh thắng giặc Mỹ xâm lược nhất định phải trả về cho chúng ta những ngày độc lập tự do.]
25-6-69 thiếu 2 câu
tiếp dòng thứ 2 trang 162... như Paven trong trường hợp đó . [(bg) Cuộc chiến này biết mấy gian lao, chúc Th. đứng vững bên cương vị của người Cộng Sản...]
16-7-69 16-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.168...” Lối đó là lối bà già vợ thằng Hùng đó”. [(bg) Ôi! những người dân Việt Nam anh hùng, có lẽ trên trái đất này không ai chịu nhiều khổ đau như mỗi người dân miền Nam anh dũng.]
26-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.172 cuối trang.... mà chị đêm ngày thương nhớ thiết tha. [(bg) Con đường em đi những bước đi còn chập chững nhưng chông gai gian khổ đầy nước mắt. Chúc em đi những bước vững vàng.]
6-8-69 thiếu đoạn cuối
Tr.179 cuối trang.... Chắc không thể có nụ cười và tiếng đàn sôi nổi ấy. [(bg) Ôi! Cuộc cách mạng ở mảnh đất này mới kỳ lạ làm sao, đau thương tang tóc ở đâu bẵng và lạc quan sôi nổi cũng không đâu bằng.]
1-9-69 thiếu đoạn cuối
\
Tr.187 cuối trang .... Không hiểu anh Sơ có biết rằng trong câu gửi gắm ấy có tình người anh lo cho đứa em gái hay không. [(bg) Anh Năm ơi, anh đi bình an nhé, em sẽ đón anh trở về trong niềm vui và tình thương sâu dậm của một đứa em gái.]
1-11-69 thiếu một hàng cuối
Tr.195 ... Anh đi bình an và mau về nghe anh. [(bg) người anh thân thương rất đỗi!]
5-11-69 thiếu đoạn cuối
Tr.196 .... con cháu nheo nhóc ở vào đâu? [(bg) Ôi! Giặc Mỹ chồng bao tội ác của bay đã chất đầy như núi. Còn sống ngày nào tao thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để trả được mối thù vạn kiếp đó.]
26-02-70 Thiếu đoạn cuối
Tr. 228 ... Tình thương của mình bỗng dột xuất mà sôi nổi lạ lùng. [(bg) Tuy nhiên lúc em ra về mình cũng chỉ căn dặn em cảnh giác cố gắng tập cho cánh tay mau bình phục rồi nhìn em bằng đôi mắt trìu mến. Thôi, đi nghe em, chúc em khỏe mau trở về với đội ngũ chiến đấu.]
27-02-70 Thiếu mất hai đoạn
Cuối Tr.228. Phải chăng vì Thuận đã làm được những điều trên?
[(Bg) Tất nhiên trong bước đường đi không ai không vấp phải khuyết điểm. Mình không hề sợ khuyết điểm, cái gì sai thì cố gắng khắc phục, cái gì đúng cố gắng phát huy không theo đuôi quần chúng, không độc đoán quan liêu, không vì sợ mất lòng mà bỏ nguyên tắc. Trước khi làm một việc gì phải cân nhắc kỹ không hướng mình đang đứng trong vai trò của một diễn viên trên sân khấu bao nhiêu đôi mắt khán giả đang nhìn, mình làm được điều đó là dĩ nhiên vì mình là một diễn viên, họ chỉ khen khi nào mình thật xuất sắc (mà điều đó thì mình chưa thể làm được). Nếu mình làm còn thiếu sót họ sẽ chê, chê nhiều, vậy mà cũng đòi làm diễn viên, dở quá vv và vv...]
Tr. 229 Bao nhiêu năm thoát ly vào sinh ra tử trên chiến trường miền Nam bây giờ lại để nó chỉ huy!...”
[(bg) Không các đồng chí ơi!, tôi làm việc cũng chỉ vì sự nghiệp của cách mang, Đảng giao phó cho tôi, nhưng trách nhiệm quan trọng cũng chỉ vì Đảng muốn tận dụng hết khả năng sức lực của tôi để phục vụ cho Đảng nhiều nhất. Tôi vinh dự vì được tin cậy nhưng không vì vậy mà tôi kiêu căng. Tôi hiểu lắm chứ tuy rằng được học tập trang bị nhiều lý luận trong nhiều năm trên ghế nhà trường nhưng có nhà trường nào lớn bằng trường đại học thực tế đâu? Tôi mới vào đây 3 năm dĩ nhiên không thể bằng những đồng chí đã trải qua 10 năm, 20 năm trên chiến trường gian khổ, cho nên hãy đến với tôi bằng tình thân của những người cùng chung giọt máu để đổ xuống cho đất nước tự do, bằng tình thương của những kẽ xa nhà lấy gia đình cách mạng làm chỗ dựa duy nhất trong cuộc sống. Hãy chỉ bảo giúp đỡ tôi để tôi trở thành một đồng chí phục vụ đắc lực cho Đảng. Phần tôi, tôi tự biết tôi phải làm gì, tự biết năng lực của mình và tự nhủ mình phải khiêm tốn học hỏi thật nhiều mọi người xung quanh.]
8-3-70 thiếu một câu cuối
Tr.233 Phải như Paven, như Ruồi Trâu, hay như M của mình đó. [(bg) Nhất định phải vậy nghe Th.!]
30-3-70 thiếu câu cuối
Tr. 237 ... hãy mạnh dạn mà đi, vững bước mà đi nghe. [(bg) người con gái XHCN trên đất miền Nam]
5-5-70 thiếu hai đoạn
Tr.241 Nhưng tao đã thề cùng các đồng chí của tao rồi, dù có chết cũng quyết đánh cho đến cùng [ (bg) để đánh giập đầu con rắn độc hiếu chiến].
Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột. Tại sao cũng là con người mà lại có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng bào để làm nước tưới cho gốc cây vàng của nó như vậy.
[(bg) bao nhiêu cũng không đủ túi tham, bao nhiêu cũng không thỏa mãn cái cuồng vọng của bọn quỷ khát máu.]
13-5-70 Thiếu đoạn cuối
Tr.243 những dòng chữ của mình vẫn theo em trên khắp chặng đường chiến đấu. [(bg) Em ơi, hãy bồi đắp cho tình cảm chị em mãi mãi thắm thiết như ngày xưa ta sống cùng nhau trên quê hương Phổ Hiệp. Thực ra trong những ngày qua cũng có đôi nét mờ đi trong bức tranh tuyệt đẹp của mối tình cảm ấy vì không biết giữ gìn, lỗi đó ở em hay ở mình.]
19-5-70 Thiếu đoạn cuối.
Tr.246 Vậy ra anh cũng hiểu mình đấy chứ. [(bg) nhưng tại sao vậy hở anh? Tại sao nỗi lo cho mình trước lúc ra đi “là điều lo anh để lên hàng đầu” mà anh lại cũng làm thinh không nói? Tại sao lúc chưa gặp anh mong chờ da diết mà lúc em đến anh lại cũng làm thinh? Ôi người anh thân thiết, anh rất gần mà lại cũng rất xa. Em hiểu anh hết mà rồi lại cũng không hiểu hết (mà chính anh cũng thắc mắc với anh nữa kia mà!) Sao vậy hở anh? ]
4-6-70 thiếu đoạn cuối
Cuối Tr. 247. vì sao ta không thể đến với nhau trong mối quan hệ tốt đẹp và chính đáng đó?
[(bg) Cách mạng miền Nam! Nhiều cái anh hùng, nhiều chuyện lịch sử mà cũng còn nhiều phức tạp, nhiều rác rưởi trong xã hội, cũng dễ hiểu thôi, vì tất cả cho sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước nên ta chưa thể tập trung sức lực để xây dựng con người XHCN, những con người toàn diện, biết sống vì mọi người, biết cách ăn ở và nếp sống có văn hóa.]
2.2.5.- CHÍN NGÀY BỎ SÓT
10-11-68 :
[(bg) Những hoạt động xã hội ngày một mở rộng đối với mình. Đại hội phụ nữ tỉnh mời dự, hội thanh niên giải phóng mời dự nhưng mình không có điều kiện tham gia. Trong cách bố trí sắp xếp kể ra cũng có những điều kiện chưa hợp lý. Một lần nữa mình hiểu thêm về lòng ghen tỵ của người đời, vẫn còn những người không vui khi thấy đồng chí mình tiến lên.
Những phút giây lịch sử trong tình chị em, trong đời người. Hãy nhớ trọn đời nghe em!]
7-12-1968
[(bg) Gặp Thường, rất lâu rồi mới được ngồi bên em nói chuyện cùng em như những ngày công tác dưới đồng bằng. Một năm qua trong xa cách, chị vui sướng thấy rằng mỗi chị em mình đều bước đi những bước trưởng thành và tình chị em cũng đã lớn lên dày dạn với thời gian. Vũng vàng trước sóng gió. Hãy vun xới cho tình cảm ấy lớn lên và lớn mãi lên nghe em!]
23-5-69
[(bg) Về công tác Phổ Cường. Đêm mờ biết bao ở nhà chị Hạnh: “Không bao giờ tự cầm dao cứa đứt mạch máu trong cơ thể mình” Không, thực tế thì có vậy nhưng em thì không có. ]
26-10-69
[(bg) Những ngày sống bên anh có cái gì làm mình cảm thấy quên đi những ngày gian khổ đang đe dọa bên mình. Có phải vì bàn tay ấm áp của anh đã nắm chặt tay mình truyền cho mình sức mạnh để đánh bạt mọi gian khổ hay không? Có phải những ngón tay nhỏ nhắn của anh đã vuốt trên mái tóc mình thân thiết truyền cho mình tình thương ruột thịt làm mình quên đi cái cô đơn của một kẽ xa nhà? Và có phải đôi mắt đen anh đã nhìn mình qua bóng đem và qua cả những phút giây ngắn ngủi giữa mọi người đã nói với mình rằng: “Hãy vững bước nghe em, trên con đường gian khổ nhưng vinh quang mà em đã chọn, bao giờ cũng có các anh giúp đỡ em với tình đồng chí và có anh dìu dắt em trong cánh tay của một người anh”
Cảm ơn anh nghe anh, em sẽ sống xứng đáng làm một đứa em và một người đồng chí của anh, có nghe em nói không hở anh Năm thân thương của em?]
19-01-70
[(bg) Cám ơn anh, người đồng chí thân thương. Anh đã đến với mẹ bằng tình thương chân thành ruột thịt, anh đã là một chỗ dưa trong cuộc sống của em. Cuộc đời thật phức tạp, không biết ở sao cho vừa lòng tất cả được, cũng như anh đã nói: “Đó là lẽ dĩ nhiên, em không bao giờ bi quan khi gặp trở ngại trong bước đường đi lên của mình”. Như bao lần em đã nói cuộc sống là một bức tranh đủ màu sắc, bên cái màu chủ đạo là màu đỏ chiến thắng và mà xanh ước mơ vẫn có thêm màu đen trong tóc màu xám lạnh lùng nham hiểm. Dù sao em cũng vẫn yêu cuộc sống, cuộc sống của những người cách mạng tha thiết tình thương và cháy bỏng niềm tin vào sức mạnh của mình. Anh Năm thân thương, anh tin em chứ? Tin ở đứa em gái của anh nghe anh.]
15-02-70
[(bg) Những ngày sống bên anh, sung sướng cảm thấy tình anh em ngày thêm gắn bó trưởng thành. Em tin anh như tin chính bản thân em. niềm tin ấy giúp em đi lên, đạp bằng mọi chông gai trở lực vươn lên làm chủ cuộc sống của mình. Sung sướng biết bao khi trong bước đi gian khổ, luôn có anh dìu dắt, anh lo cho em từng ly từng tý, anh dạy bảo em với tình một người anh trai với đứa em gái, anh xây dựng cho em với trách nhiệm một bí thư huyện ủy với một đồng chí mới làm công tác Đảng, anh săn sóc em với tình đồng đội cùng chung trong cuộc chiến đấu sinh tử này. Hãy giữ tròn mãi mãi “...trong ngần thiết tha” nghe anh Năm!]
24-3-70
[(bg) Đọc những lá thư của anh càng hiểu càng thương anh vô cùng, anh Năm ạ. Quả thực anh đã lo, đã thương em với tình thương sắt son ruột thịt, anh em ta thường nói với nhau rằng: Dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ trọn tình anh em thủy chung như nhau. Đâu có phải em không tin anh, em thường nói với chính em rằng em tin anh như tin bản thân mình nhưng ngay cả bản thân mình em cũng nhiều lúc không hiểu rằng xử trí như vậy đã đúng chưa. Vì vậy anh đừng trách khi em giận anh. Thực ra cũng có một tình thương sâu đậm nên em mới cảm thấy giận anh, nếu không, một lá thư như vậy, những câu nói như vậy hết sức bình thường với những người khác nhưng với em lại là khác, em đòi hỏi ở anh một sự quan tâm, đòi hỏi ở anh những biểu hiện của một tình thương đằm thắm trong sạch của một người anh trai với đứa em gái cưng của anh. Đòi hỏi ấy có cao không nhỉ? “Anh đã dành tất cả tình thương duy nhất, độc nhất cho em gái anh” Thì như vậy đâu phải là cao. Vậy đó anh à, hãy hiểu em nhiều hơn nữa nghe anh, hiểu cái đứa em gái có trái tim đầy nhiệt tình, đầy ưu ái, niềm tin ở cuộc đời. Em còn dại lắm, em tin người ta dễ dàng mà cuộc đời lại chưa phải đáng để tin như vậy. Mong anh sẽ là người dìu dắt em đi vững bước một trên con đường chông gai nguy hiểm nhưng rất đỗi vinh quang mà anh em mình đã chọn.]
01-4-70
[(bg) Kỷ niệm 10 năm ngày vào Đoàn, 10 năm qua từ một thiếu niên bây giờ Th. đã là một cán bộ dày dạn trong khói lửa. Th. không thể tự hào mà chỉ thấy rằng mình đã làm đúng như lời thề dưới cờ Đoàn trong ngày hôm ấy.
Những đêm dài suy nghĩ, Th. ơi, hãy nghiêm khắc với bản thân hơn nữa, đừng để một câu hỏi làm đau nhói trong Th. Tại sao mọi người không hiểu Th? Mà hãy hỏi: Tại sao Th. lại để mọi người không hiểu mình? Đành rằng có những người không tốt: nhỏ mọn, ghen tuông, kèn cựa nhưng dù họ với tính cách như vậy vẫn có một số người họ không thể nói được. Vậy thì hãy làm như những người đó. Đừng khóc Th. ơi, nước mắt hãy giành cho ngày gặp mặt những người thân yêu. Đêm khuya nằm bên những người đồng đội, họ đã ngủ, hơi thở đều đều, ngoài kia từng tràng pháo nổ dậy trời. Ơi những người đồng chí của tôi, ta đang cùng chung hơi thở giữa chiến trường lửa khói, hãy thương yêu đùm bọc lấy nhau, sống chết kề một bên, ghen tuông kìn cựa để làm gì?]
05-4-70
[(bg) Có phải mình cô đơn mà cảm thấy nhớ thương đến vô cùng hay không hở người anh thân thiết của em? Chiều nay Cúc lên đường về cơ quan phục vụ, bỗng nhiên nỗi buồn nhớ như tăng lên bội phần. Cuộc sống sao mà phức tạp mà sao mình lại làm một con bé sống với trái tim giàu tình cảm như thế này? Tại sao ư? Vì từ nhỏ đến giờ nó là như vậy. Nghe những ý kiến của chị Hạnh cảm thấy buồn lạ lùng. Con người vẫn có những kẻ sống với tầm mắt nhỏ hẹp, họ không thể có được những tình cảm trong sáng chân thành như một số người khác. Với họ chỉ có vật chất, chỉ có xác thịt!! Ôi ghê tởm làm sao. Anh trai của em ơi, có đúng như lời anh đã nói đó không? “Tình anh em ta sẽ tồn tại mãi mãi dù thời gian, không gian biến động thế nào” nghĩa là ta sẽ đàng hoàng thanh bạch mà sống, đạp qua mọi rác rưởi gai góc cản trở đường đi của ta. Em cũng sẽ làm như anh, sẽ thực hiện đúng như lời em đã hứa cùng anh.]
3.- TÁC GIẢ:
Bàn về một tác phẩm mà không tìm hiểu tác giả là một điều thiếu sót không thể tha thứ được cho dù người đó đã nằm xuống. Trong bản gốc của nhật ký không có ghi tiểu sử của tác giả, nhưng theo lời kể của gia đình và nhân chứng trong sách in có thể sơ lượt như sau:
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942
1960-1961: Học sinh lớp 10C trường trung học Chu Văn An Hà Nội.
Năm 1966: Tốt nghiệp bác sĩ mắt Đại học y khoa Hà Nội (?)loại ưu.
Năm 1967: Vào Nam chiến đấu, phụ trách một trạm xá nhỏ ở Đức Phổ Quảng Ngãi.
Chết lúc 17g20 ngày 22-6-1970.
Nhiều người đã đặt nhiều nghi vấn về chức danh bác sỹ của DTT, bởi nguyên do thời gian theo học đại học y khoa khá ngắn ngủi(?)vì vậy người viết phải làm cuộc so sánh như sau:
3.1.- THỜI GIAN: Trước 1975 tại miền Bắc, hệ giáo dục trung học là 10 năm. Đào tạo bác sĩ chỉ có 5 năm (?).Trong khi ở miền Nam hệ trung học là 12 năm, và đại học y khoa thường là 7 năm.
Như vậy ở miền Bắc, một người bác sĩ chỉ mất 15 năm học ở nhà trường. Ở miền Nam phải mất 19 năm.
3.2.- HỌC TRÌNH: Học sinh Miền Nam chỉ thuần túy học về chuyên môn và văn hóa trong suốt thời gian, hoàn toàn không học chính trị hay sinh hoạt đảng phái đoàn thể.
Trong khi đó học sinh miền Bắc phải tốn ước chừng khoảng 1/3 thời gian để học tập chính trị từ sơ cấp đến trung cấp Mác Lê ở bậc đại học, xây dựng chủ nghĩa cộng sản khoa học, đây là những môn thi bắt buộc. Ngoài ra còn phải phấn đấu sinh hoạt ngoại khóa trong phong trào, tranh thủ để trở thành cháu ngoan bác Hồ, đối tượng Đoàn, đối tượng Đảng.
Nếu so sánh một cán sự y tế, hay cán sự điều dưỡng miền Nam được đào tạo 3 năm chuyên môn, với trình độ trung học, tổng cọng thời gian học cũng từ 12 năm trở lên ( 9 năm bằng trung học đệ nhất cấp + 3 năm chuyên môn).Nếu căn cứ vào học trình để kết luận, thì người bác sĩ miền Bắc bị nhồi sọ về chính trị Mác Lê hơn miền Nam. Nhưng chuyên môn và văn hóa người bác sỹ miền Bắc chỉ có trình độ tương đương với một người cán sự y tế trung bình mà thôi, không thể so sánh bằng với bác sỹ miền Nam được. (Trước 1975)
3.3.- CÔNG TÁC THỰC TIỄN: Với trình độ chuyên môn như trên, tốt nghiệp loại ưu (Tr.305) chắc là DTT sẽ đạt nhiều thành tích xuất sắc trong hoạt động chuyên môn của mình. Sau đây là những thành tích của một bác sĩ XHCN rất đáng để chúng ta suy gẫm và đánh giá.
08.04.68 (tr.33)
Mỗ một ca ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn, thuốc giảm đau chỉ còn vài ống Novoraine nhưng người thương binh trẻ không hề kêu la một tiếng, anh còn cười để động viên mình, nhìn nụ cười gượng trên môi khô vì mệt nhọc, mình thương anh vô cùng.
Rất đau xót rằng sự nhiễm trùng trong ổ bụng không do ruột thừa vỡ. Tìm kiếm gần một giờ đồng hồ không thấy nguyên nhân đành đóng lại cho đặt dẫn lưu và đổ kháng sinh trong ổ bụng.
Nỗi băn khoăn của một người thầy thuốc cộng nỗi thương xót mến phục người thương binh ấy làm mình không thể yên lòng, vuốt nhẹ mái tóc anh mình muốn nói với anh rằng: với những người như anh mà tôi không cứu chữa được thì đó sẽ là nỗi đau xót khó mà phai đi trong cuộc đời phục vụ của một người thầy thuốc.
Bác sỹ định bệnh sai, đưa đến chết người
22.04.68 (Tr.41)
... Một ngày mệt nhọc vô cùng, ba ca thương nặng vào một lúc, suốt một ngày đứng bên bàn mổ, đầu óc căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột của chú Công (cha Hường) và vì những tin buồn dồn dập ...
DTT là bác sỹ mắt nhưng làm công việc giải phẫu là chính.
20.07.68 (Tr.64)
... Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi người trong bệnh xá đều hết sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình vừa phụ trách bệnh xá vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng vất vả cũng còn nhiều khó khăn trong công việc nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng, sức lực của mình để cống hiến cho cách mạng....
27.08.68 (Tr.75)
Một ca mổ quan trọng đã kết quả. Thận dập nát đã được may lại, máu ngừng chảy nước tiểu người bệnh nhân ấy đã trong lại bình thường. Lẽ ra niềm vui ấy sẽ tràn trề, một mạng người được cứu sống nhưng sao mình rất bình thản trước nụ cười và đôi mắt cảm phục của người bệnh nhân ấy. Một dòng máu ngừng chảy nhưng bao nhiêu dòng máu đã chảy và đang chảy? ...
05.10.68 (Tr.84)
Một ca tử vong sau phẫu thuật cắt đoạn. Đó là một bệnh nhân gần 66 tuổi nhưng sức còn khỏe, đó là một Đảng viên già đã 23 năm trời liên tục chiến đấu. Gia đình và bệnh xá đã tận tình cứu chữa mà cũng không sao cứu thoát cho ông già. Riêng mình dù tập thể và chính bản thân con trai ông già đã xác định và thừa nhận mình không có lỗi mà chỉ có lòng tận tình cứu chữa nhưng mình vẫn xót xa.
Vì sao ông ta chết? Vì kỹ thuật? Cũng không phải tuy là ca đầu tiên cắt cụt nhưng mình vẫn bình tĩnh vẫn đảm bảo thời gian và kỹ thuật. Vậy thì vì sao? Vì không truyền được lọ plasma? Nhưng sự việc này cũng không biết nói sao, cứ truyền vào đúng ven lại trật ra do ông già quẫy cựa. Buồn vô cùng! Một ca tử vong không đáng tử vong mà lại không rút ra được bài học gì đích đáng cả.
Lần đâu tiên giải phẫu cắt cụt, gây chết người, mà không rút ra được bài học nào cả.
24.10.68 (Tr.91)
Một ca mổ cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điều kiện thô sơ mình cũng đã mỗ thăm dò nhưng rất tiếc rằng cancer đã sang giai đoạn di căn. Không thể làm gì hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót nhìn người bệnh nhân đi dần đến cái chết....
Lại mổ ung thư, gây chết người.
09.01.69 (Tr.115)
... Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt, em nằm im lìm không rên la, một chân đã bị mìn tiêu cụt tơi tả, máu thấm ướt hết áo quần. Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với tình thương, mình đã cùng các đồng chí hết sức cứa chữa cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: “Bây giờ chắc sống 80% rồi đây“
Riêng mình vẫn lo lắng vì Bốn mất máu quá nhiều, mạch vẫn rất nhanh 140-150 nhưng cũng nhiều hy vọng.
Cuối cùng Bốn đã không vượt qua nổi, máu ra nhiều quá nên em không còn đủ sức. Bốn ơi máu em đã thấm đầy trên mảnh đất quê hương, máu em đã chảy dài trên đường em đi chiến đấu....
Cũng cắt cụt gây chết người
15.03.69 (Tr.133)
Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh, anh bị một vết thương xuyên thấu bụng. Sau cuộc mổ tình trạng không tốt mà xấu đến có lẽ vì một sự chảy máu trong do miến mảnh không tìm thấy cọ xát làm đứt một mạch máu nào đó. Sau hội chẩn, ý kiến chung không đồng ý mổ lại. Riêng mình vẫn băng khoăn lưỡng lự.
Cuối cùng anh đã chết. Cái chết của anh làm mình suy nghĩ đến đau đầu. Anh chết vì sao? Vì sự thiếu cương quyết của mình chăng? Rất có thể là như vậy. Nếu mình kiên quyết, ít ra 100% thì hy vọng cứu sống anh có thể có 10%. Mình đã theo đuôi quần chúng, bỏ qua một việc làm nên làm.”
DTT là người có chuyên môn duy nhất trong bệnh xá mà không có quyền quyết định về chuyên môn bằng lãnh đạo quần chúng? Giá trị của lãnh đạo tập thể?
29.07.69 (Tr.174)
Chiến tranh thật tàn khốc hết mức, sáng nay người ta đem đến cho mình một thương binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy, đến với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi ngút cháy trên người nạn nhân....
Tóm lại DTT là một bác sỹ mắt mà đi làm công việc giải phẫu chửa đủ các loại bịnh theo kiểu “không có chó, bắt mèo ăn cứt” từ cắt cụt chân, mổ ruột thừa, vá thận, mổ ung thư dạ dày, chửa bỏng còn nhiều nữa chưa kể hết trong nhật ký này (?)
Trong hơn một năm làm phẫu thuật, gây chết 5 người mà vẫn được khen tặng như sau:
06.10.68 (Tr.85)
Có những lời nữa đùa nữa thật ghen với tình thương mà mọi người đã giành cho mình. Mình cũng suy nghĩ về những lời đùa đó nhưng suy ra cho cùng đâu phải mọi người thương mình vì hai chữ “Bác sỹ”...
1.11.68 (Tr.92)
Tổng kết năm qua, bệnh xá Đức Phổ được báo cáo điển hình trong toàn tỉnh về thành tích điều trị và các mặt khác, và trong số những người xuất sắc ấy có cả mình. Đó là một thắng lợi chung trong đó có mình một chút.
07.04.1969 (Tr.138)
Được rất nhiều thư, niềm vui tràn ngập thư mẹ, thư em, thư bè bạn từ trên khu, trên tỉnh, trên huyện, dưới xã ai ai cũng gửi đến mình lòng thương mến thiết tha.
Những lời khen ít nhiều cũng làm mình sung sướng: “Thùy Trâm đã được mọi người thương, bạn mến, Đảng tin...”, “Thật là một người trí thức toàn diện...”
Không biết bao nhiêu lần mình tự hỏi phải làm gì đây để xứng đáng với lòng tin của mọi người.
Đây là niềm hãnh diện của Đặng Thùy Trâm, người trí thức XHCN toàn diện(?)
Với thành tích trên đã khơi động sự tò mò của người viết phải đi tìm lại dấu tích con đường học vấn của tác giả. Qua lời kể bà mẹ DTT:
Bà cụ nói: “Gia đình không tưởng tượng được là ngay ở Đức Phổ, Quảng Ngãi mà Thùy còn gây dựng được một vườn thuốc và người dân vẫn giữ gìn đến tận bây giờ”. Chị Kim Trâm tiếp lời: “Vốn kiến thức về dược liệu mà chị Thùy có đấy là được mẹ truyền cho từ ngày còn nhỏ. Trường y đâu có dạy chị về dược liệu, nhất là thuốc nam. Hồi bé, chúng tôi ở với cha mẹ ngay trong khu tập thể Bộ Y tế, đằng sau là một vườn thực vật rộng mênh mông. Ngoài giờ học và làm việc nhà, mấy chị em toàn chạy vào vườn thuốc chơi.
Chúng tôi lấy những lá chuối to che lại làm lều, “cắm trại” ngay trong vườn thuốc, trò chơi yêu thích nhất của chúng tôi là “đố cây đố lá”, lá này của cây gì, dùng để làm gì. Không biết thì về hỏi mẹ. Cứ như thế mà chúng tôi biết được tên gọi và công dụng của các cây thuốc trong vườn”.
Bà cụ lại tiếp: “Thùy nó học nhiều hơn ở cha. Thùy học chuyên khoa mắt, không học ngoại, nhưng hằng ngày sau khi học ở trường y về Thùy vẫn đến bệnh viện của cha để theo dõi cha mổ, để học thêm những kinh nghiệm điều trị của cha. Tối đến, hay vào các ngày nghỉ, hai cha con lại say sưa cùng nhau vẽ. Ông ấy không dạy Thùy vẽ tranh phong cảnh mà dạy con vẽ người trên các bức hình giải phẫu. Ông ấy vẽ đẹp lắm, Thùy nhờ cha cũng vẽ rất khá, và cũng từ các bức vẽ “anatomie” ấy, cùng với những lần theo cha đi trực giải phẫu mà sau này khi vào chiến trường, nó có thể bắt tay làm phẫu thuật thương binh được, dù học chuyên khoa mắt”. (Báo Tuổi trẻ 4-8-2005 bài ngọn nến vẫn cháy mãi)
Tóm lại DTT học tây y chuyên khoa mắt, nhưng ra làm chuyên viên giải phẫu đủ các loại bệnh và chữa trị bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn, chẳng khác gì các thầy thuốc lang băm. Một kỷ lục đáng hãnh diện ghi vào lịch sử phát triển y tế CNXH Việt Nam(?)
Đọc tiếp nhật ký (tr.314-315) “ Ai biết liệt sĩ Đặng Thùy Trâm? ... Chúng tôi đã hỏi trường Đại học Y khoa. Sở Lao động Thương binh-Xã hội, hỏi Ban liên lạc họ Đặng Việt Nam, đến cả Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam cũng không ai biết”.
DTT tốt nghiệp loại ưu là một vinh dự cho nhà trường và gia đình tại sao không có tên trong danh sách tốt nghiệp? Tại sao gia đình không có giữ một bằng chứng nào như văn bằng tốt nghiệp, hình ảnh lễ mãn khóa, tiệc mừng gia đình lúc DTT tốt nghiệp? Trong khi gia đình vẫn còn giữ hình ảnh những ngày cuối cùng trước khi vào Nam chiến đấu. Điều này chứng tỏ DTT không có làm lễ mãn khóa ra trường, không có đem văn bằng tốt nghiệp về cho gia đình lưu giữ (?)Chỉ có một câu trả lời hợp lý là DTT chưa bao giờ tốt nghiệp đại học y khoa. và DTT đã khai man lý lịch trước khi vào Nam chiến đấu?
Hãy nghe lời nhân chứng trong nkdtt (tr.319) lời của ông Ngô Sơn Huy (nguyên phó hiệu trưởng trường PTDL Đinh Tiên Hoàng) là bạn thân của Đặng Thùy Trâm như sau: “ Qua lời Trâm kể, tôi biết Trâm được tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội sớm một năm để đi chiến trường.”
Tại sao DTT lại tốt nghiệp sớm một năm? Theo thông lệ miền Nam sinh viên ra trường sớm hơn học trình đào tạo chỉ rơi vào những trường hợp học kém hay bị kỷ luật bị sa thải mà thôi. Sinh viên ở miền Bắc thì sao? chắc không ra ngoài thông lệ đó?
Hãy nghe DTT tự thú trong nhật ký:
23-07-69 (Tr.170)
Một chiếc bật lửa Mỹ có khắc tên mình cạnh tên người đồng chí thân yêu. Anh Đáo đưa nó cho mình và hỏi ai khắc. Mình cười vô tư rồi trả lại anh nhưng lúc ra về mình cảm thấy nao nao. M. ơi! Anh khắc tên em cạnh anh vì sao? Vì những ngày xưa thơ mộng vì tình thương yêu đằm thắm nơi anh vẫn còn hay vì đó là một động tác bình thường của anh? Thực ra không ai làm việc gì mà không có ý nghĩ. M. lại càng không phải là loại người như vậy nhưng M. ơi, anh hãy nói đi anh, vì sao anh khắc tên em bên cạnh tên người bộ đội giải phóng quân mà anh thường nói rằng không phù hợp với cô sinh viên y khoa ấy?
M là người yêu của DTT từ 8 năm trước, vẫn xem DTT là một sinh viên y khoa dù DTT đã làm việc với chức danh bác sĩ đã 3 năm qua, đây là điều nghịch lý trong nhật ký. Chỉ có thể lý giải một điều bí mật chỉ có giữa M. và DTT biết rất rõ mà thôi đó là : DTT là một sinh viên y khoa và chưa bao giờ tốt nghiệp và mãi mãi vẫn là một sinh viên y khoa trong lòng M. DTT đã chấp nhận sự thật đó! DTT không hề phản kháng hay hờn giận.
4.- NHỮNG NGHI VẤN XUNG QUANH CUỐN NHẬT KÝ:
Đây là phần nội dung biên soạn trong sách in do những người chỉnh lý biên soạn và nhân chứng liên quan hoàn toàn không có trong bản gốc nhật ký.
4.1 NGƯỜI LƯU GIỮ NHẬT KÝ:
Câu chuyện xuất phát từ ông tiến sĩ FREDERIC WHITEHURST, 35 năm về trước là một người lính trinh sát Hoa Kỳ có lưu giữ hai tập nhật ký của ĐTT, và ông đã có ý định tìm lại gia đình DTT để tính đến chuyện xuất bản tập nhật ký trên, phần sau là một trong những thư trao đổi đầu tiên giữa ông Frederic Whithurs với gia đình DTT.
Chủ nhật, 1.5.2005
Thưa bà Trâm,
Tôi mong rằng lá thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin đó là cái chết của con gái bà. Tôi ngồi chờ một trận đánh cùng một quân đoàn Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh trong quá khứ.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí và họ chỉ cần tích tắc để chặn một tay súng lại. Khi thấy bị bắn tiếp lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy rằng người đó chết trong khi bảo vệ các bệnh nhân của một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu SKS và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Di sản của DDT-Talawas)
Bức thư trên đã được chỉnh lý sửa đổi. Người biên tập đã ngang nhiên sửa đổi nội dung thư từ riêng của một luật sư tiến sĩ (có sự đồng ý của tác giả bức thư không?) đây là một điều xúc phạm nặng nề, khó chấp nhận được. Sau đây là bức thư bị sửa đổi:
20g27, chủ nhật 1-5-2005
Thưa bà Trâm.
Tôi mong rằng thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin: đó là trường hợp hi sinh của con gái bà. Tôi đang ngồi chờ một trận đánh cùng một đơn vị lính Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh đã từng tham dự.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị của anh ta gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh ta gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có một người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn hãy đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi đầu hàng là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy người đó đang bảo vệ các bệnh nhân trong một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu CKC và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Tr.259)
Phải chăng ông Fred sợ rằng gia đình không tin câu chuyện kể của mình , nên ông Fred đã cẩn thận nhấn mạnh lần thứ hai qua bức sau:
9g44, thứ hai, 2-5-2005.
Thưa bà Trâm.
Và giờ đây thắc mắc của tôi đã được giải đáp. Trận đánh mà người lính nọ tả lại cho tôi đúng là điều đã xảy ra. Con gái bà đã một mình chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo vệ các bạn mình.
Ở bất cứ đất nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là ANH HÙNG và những người anh hùng đều được tất cả mọi người tôn kính, dù người đó là đàn ông hay đàn bà. Thế giới phải được biết về sự dũng cảm của con gái bà và mãi mãi học hỏi được điều gì đó từ tình yêu và những suy nghĩ của chị. Fred (tr. 261)
Thưa ông tiến sỹ Frederic Whithurs qua nội dung bức thư tự giới thiệu:
Thứ Ba, 3.5.2005
Hiền và Hồ thân mến,
.... Khi trở về nhà sau chiến tranh, thân thể tôi chỉ bị thương chút ít nhưng trái tim tôi bị tổn thương. Ngay sau khi trở về tôi quay lại trường đại học và tiếp tục học môn hóa. Học xong đại học tôi tiếp tục làm tiến sĩ về hóa học ở đại học Duke trong năm năm rưỡi. Tôi nhớ đó là một thời gian rất khó khăn. Khi làm luận án tiến sĩ tôi cần có người tài trợ, và giáo sư hướng dẫn của tôi chọn người tài trợ là quân đội Mỹ.
Nhưng họ muốn tôi nghiên cứu về các vật liệu có chứa phốt-pho. Những nghiên cứu như thế có thể giúp phát triển một cuộc chiến tranh khí hóa học. Tôi tức giận từ chối và nói với giáo sư là tôi sẽ thôi không nghiên cứu nữa. Tôi sẽ không để cho người ta sử dụng mình để giết người một lần nữa. Giáo sư nói với tôi rằng một ngày kia tôi sẽ hiểu bất cứ điều gì do con người sáng tạo ra sẽ có một kẻ tìm cách sử dụng nó với những mục đích hủy hoại, đồng thời sẽ có người khác tìm cách sử dụng nó với mục đích tốt đẹp. Dẫu thế tôi vẫn từ chối và cuối cùng đề tài nghiên cứu của tôi là hóa học các-bon. Sau khi nhận được bằng tiến sĩ hóa học vào năm 1980 tôi tới Texas để tiếp tục học tập và nghiên cứu, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận thấy không thỏa mãn. Vậy là tôi lại làm việc cho chính phủ Mỹ một lần nữa và trở thành một nhân viên của FBI. Suốt bốn năm, mặc dù là tiến sĩ hóa học nhưng tôi lại làm một thám tử đặc biệt của FBI chuyên điều tra các vụ cướp nhà băng, bắt cóc trẻ em, các vụ ma túy có liên quan đến heroin, cần sa, cocain và các chất gây nghiện khác. Sau đó tôi chuyển tới làm ở một phòng thí nghiệm về các tội phạm hình sự của FBI, Washington D.C. Chính ở đó tôi đã trở nên nổi tiếng cả ở trong nước lẫn quốc tế. Các bạn thử gõ tên tôi trên Internet và xem người ta đã viết những gì. Cuối cùng tôi đã kiện Tổng thống Mỹ, Tổng Luật sư, Giám đốc FBI, Cơ quan FBI, Bộ Tư pháp Mỹ và Chính phủ Mỹ.Đó là cả một câu chuyện dài về một người đàn ông không làm ngơ trước những sai trái.Năm 1998, sau khi thắng tất cả các vụ kiện, tôi về hưu sớm, quay về sống ở cái xóm nhỏ Bethel để tiếp tục công việc và chăm sóc cha mẹ tôi.Năm 2000 cha tôi qua đời nhưng mẹ tôi còn sống và là một kho báu đối với gia đình tôi cũng như đối với tôi.Vì tôi có học luật trong những năm từ 1992 đến 1996 ở Đại học Georgetown ở Washington DC cho nên từ khoảng hai năm rưỡi nay tôi bắt đầu hành nghề luật. ... Fred (Di sản DTT - Talawas)
Ông là người có nhiều kinh nghiệm thực tế và kiến thức uyên bác như trên thì tôi không nghĩ là ông không biết (trừ phi ông cố tình không muốn biết) câu chuyên của người lính vô danh cách đây 35 năm chỉ là DỐI TRÁ, là HƯ CẤU. Thế mà ông vẫn cố tình tin là sự thật(?)để tạo dựng nên một mẫu anh hùng ĐẶNG THÙY TRÂM thì người viết đành phải đặt nghi vấn về sự trong sáng của cá nhân ông trong công việc lưu trữ nhật ký này bởi những nghịch lý sơ đẳng như sau:
4.1.1.- Quân số và đơn vị: Trước 1975 hệ thống binh quyền của lính Mỹ và VNCH được tổ chức theo lý thuyết là đơn vị nhỏ nhất là tiểu đội gồm 12 người, 3 tiểu đội gộp lại thành một trung đội, và ba trung đội thành một đại đội và 3 đại đội thành 1 tiểu đoàn. Và lệnh tác chiến phân bổ theo đơn vị chứ không theo số người dù rằng trên thực tế quân số đơn vị luôn luôn thiếu do hao hụt bởi cuộc chiến không bổ sung kịp. Như vậy con số 120 người lính nói trên thuộc bao nhiêu đơn vị?. Một đại đội quá thừa, mà hai đại đội quá thiếu quân số không phù hợp với thực tế . Như vậy chỉ có thể kết luận đây là con số 120 lính Mỹ chỉ là con số phóng đại trong cuộc hành quân nói trên. Phóng ảnh tr.290 báo cáo quân sự cho thấy chỉ có một trung đội hành quân lúc bấy giờ tức là dưới 36 người.
4.1.2.- Vũ khí, hỏa lực: Sau cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân, không kể các loại súng cộng đồng, hay đại liên, vũ khí cá nhân của hai bên cuộc chiến đã hoàn toàn thay đổi. lính miền Bắc sử dụng AK.47, riêng lính Mỹ và VNCH sử dụng súng M.16, M.15 đây là những loại súng tự động, bắn liên thanh hằng loạt với tốc độ nhanh, sát thương nhiều. Còn những loại súng bán tự động như carbin M.1, M.2, garant M.1, CKC không còn được dùng trong trực tiếp chiến đấu nữa vì hỏa lực yếu, tốc độ bắn chậm, dễ trở ngại tác xạ, các loại súng này chỉ được sử dụng canh gác thứ yếu ở những đơn vị phòng thủ cơ sở, hay nhát ma mà thôi.
Do vậy với hỏa lực SKS(?)chỉ có khả năng bắn tỉa bắn lén rồi chạy trốn làm gì có trực diện chiến đấu với 120 lính Mỹ. Vì chỉ cần nổ phát súng, lộ mục tiêu là banh thây ngay tích tắc chứ làm sao mà có thể cầm cự khá lâu. Đây là một sự hoang tưởng.
4.1.3.- Thực tế hành quân: Đội hình hành quân căn bản ở quân trường đã dạy, nhất là lính Mỹ lại càng được huấn luyện kỹ lưỡng hơn nữa, để tránh nhiều thương vong thì khi hành quân thường dùng đội hình quả trám hay đội hình hàng ngang và luôn luôn có toán trinh sát đi đầu. Như vậy DTT bất quá chỉ đụng phải toán trinh sát nhỏ này là đã chết bởi hỏa lực yếu kém của mình, đâu còn thời gian chờ 120 lính Mỹ đàng sau đi tới để chiến đấu trở thành anh hùng.
4.1.4.- Trở lại lời văn viết trong thư : “Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn”
Trong hành quân tác chiến, địch nổ súng vào mình tại sao không bắn trả theo phản xạ chiến trường, theo qui luật bất thành văn bắn chậm là chết, mà lại kêu gọi đầu hàng? Tại sao thấy người chạy trốn lại không bắn hay đuổi theo, trong khi muốn bắt họ? tại sao súng SKS lại có thể bắn được nhiều viên đạn bắn vào lính Mỹ mà 120 tay súng bắn lại khá lâu mới chặn được? Cũng là những điều nghịch lý.
4.1.5.- Đặng Thùy Trâm chiến đấu như một ANH HÙNG?
Chúng ta hãy nghe lời tự thuật của DTT trong nhật ký:
27-7-69 (Tr.173)
Bây giờ rất khó đi vì pháo bắn nên chị không thể dẫn đi được. Quả nhiên chưa nói dứt lời pháo đã nổ chát bên tai, lửa rực sáng cả khu vực mình ở. Đành phải ở lại nhà chị Thịnh đem nay một đêm đầu tiên mình phải sống bơ vơ không có ai đảm bảo cho mình ngoài những người dân đối với mình chỉ có một tình thương bình thường gần 3 năm nay đi đâu mình cũng vô tư mặc dù giữa tình hình rất căng thẳng mình vẫn yên tâm vì đã có người bảo vệ mình chu đáo, dựa vào họ mình không phải lo lắng gì cả. Đêm nay chỉ một mình mình lần đầu tiên kể từ ngày bước chân vào Nam mình phải suy nghĩ, địch càn xuống mình sẽ chạy đi đâu, nếu chúng tập kích vào đêm nay thì phải xử trí thế nào? Cần liên hệ với ai để có công sự ở
Tính vào thời điểm tháng 7-69, sau 3 năm vào Nam, DTT chưa một ngày trực tiếp chiến đấu, chưa hề cầm súng, đi đâu có người bảo vệ, chưa biết phản ứng ra sao khi địch tấn công.
Trong thư ông mô tả DTT một mình chiến đấu như là anh hùng, có phải DTT đã tự nguyện hay là bị bắt buộc chiến đấu? bị bỏ rơi không lối thoát? và đây là câu trả lời từ trong nhật ký DTT:
8.4.69 (Tr.139)
Địch càn, vào gần đến máng nước, còn một chút xíu nữa là cơ đồ của bệnh xá tan hoang. Biết địch gần sát bên nách mà sao mình bình tĩnh lạ lùng. Sau khi đưa thương binh đến chỗ trốn rồi mình quay lại đứng trong phòng mổ. Mình muốn thử xem nếu địch vào đến đây mình có đủ can đảm và linh hoạt giải quyết như những người thường hay ở lại hay không. Cuối cùng địch không vào và đêm đó mình lại ngủ ngon lành trong căn phòng trống trải lộn xộn giữa cảnh chạy càn.
28.4.69 (Tr.145)
Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có những cái lận đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Đảng vì thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh xá.
Chưa đến 6 giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay xách nách mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc trường Đảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ hôi được, mình đành động viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.
Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm chắc địch đã đến trạm trực nên quay vào báo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm gì thì anh em du kích dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đã vào đến máng nước rồi và tất cả nhân dân hối hả chạy.
Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải khiêng mà chỉ có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. “Không thể bỏ thương binh được, phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đồng chí ạ!”. Mình nói mà lòng thấy băn khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.
Mấy cas thương được chuyển đi, còn lại Kiệm - một thương binh cố định gãy xương đùi. Không biết làm sao mình gọi Lý - con bé học sinh - lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc, mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển giùm. May quá lại gặp Minh, Cơ - hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đã bắn chết đồng trí Vận - thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống hố trốn tạm một nơi.
Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu một mình Vận, còn cán bộ thì vắng chín đồng chí.
DTT đã bị bỏ rơi một mình với 5 thương binh nặng. Một giờ sau 9 cán bộ vẫn chưa về.
Hãy đọc tiếp trang nhật ký cuối cùng:
20.6.70 (Tr.255)
Đến hôm nay vẫn không thấy ai qua. Đã gần 10 ngày kể từ hôm bị bom lần thứ hai, mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp đến đón bọn mình ra khỏi khu vực nguy hiểm mà mọi người nghi là Điệp đã chỉ điểm nay. Từ lúc ấy, những người ở lại đếm từng giây phút, 6 giờ sáng mong chờ đến trưa, trưa mong cho đến chiều... Một ngày, hai ngày.. rồi chín ngày đã trôi đi mọi người vẫn không trở lại! Những câu hỏi cứ xoáy trong đầu óc mình và những người ở lại. Vì sao? lý do vì sao mà không trở lại. Có khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cách này sao?
Không ai trả lời bọn mình cả, mấy chị em hỏi nhau, bực bội, giận hờn rồi lại bật cười, nụ cười qua hai hàng nước mắt long lanh chực tràn ra trên mi mắt.
Hôm nay gạo chỉ còn ăn một bữa chiều nay là hết. Không thể ngồi nhìn thương binh đói được. Mà nếu đi, một người đi thì không đảm bảo, đường đi trăm nghìn nguy hiểm còn nếu đi hai người thì bỏ lại một người nếu có tình huống gì xẩy ra thì sao? Và không nói gì xa xôi, trước mắt trời sẽ ập nước xuống, một mình loay hoay lam sao cho kịp, chăng nilon trước thì sợ máy bay! Cuối cùng phải hai người đi chị Lãnh và Xăng ra đi, mình đứng nhìn hai người chị quần xắn tròn trên vế, lăn lội qua dòng suối nước chảy rầm rầm, tự nhiên nước mắt mình rưng rưng.
Qua những trang thư trên có thể kết luận rằng DTT chưa hề có một ngày trực tiếp cầm súng chiến đấu, DTT làm công tác hậu cần săn sóc thương binh, và đã từng bị bỏ rơi một mình khi có tình huống địch càn, và không có có kinh nghiệm úng xử lúc lâm trận thì làm gì có chuyện anh hùng chống 120 lính Mỹ. Cũng giống như hình ảnh những cán binh mặt còn búng ra sửa, không biết lý do vì sao mà phải đi chiến đấu, bị xích lại trong xe tăng lầm lũi tiến đến trong lửa đạn vì số lùi đã bị phá hỏng trong tết Mậu Thân tại thành Nội Huế. Cũng được ca ngợi là anh hùng?
DTT chết trong hoàn cảnh bỏ rơi một mình chỉ là trường hợp vắt chanh bỏ vỏ mà thôi.
4.1.6.- Thương binh ở đâu:? Theo mô tả tình huống trong lá thư ngày 17-06-70 (Tr.253)
“Ngày này Moran không quân, không khí im lặng thỉnh thoảng từng đợt những chiếc HU1A quần sát trên đồi, chắc chắn địch ở quanh khu vực này. Chỉ có ba chị em gái ở nhà cùng với năm thương binh cố định”
Ngày 20.6.70 hai người đi tìm lương thực, chỉ còn lại một mình DTT và 5 thương binh nặng nằm một chỗ.
Ngày 22.6.70 DTT chết tại sao không bắt được người nào? Vậy 5 thương binh ở đâu? Không lẽ 120 lính khỏe mạnh không chạy kịp 5 thương binh nằm tại chỗ ?
4.1.7.- Tiếng chân người? Với tình huống hiện trường như trên, thì một nghi vấn đặt ra là tiếng chân người chạy là ai? ở đây có nhiều kịch bản xảy ra trong ngày 21 và 22 như sau:
•KB1: Đoàn người không về. DTT phải chiến đấu cản đường với cây súng SKS để cho thương binh trốn thoát? Những thương binh nằm liệt giường mà còn khả năng chạy tạo nên tiếng chân thình thịch cho lính Mỹ nghe thấy? Với khoảng cách giữa địch và lính Mỹ phải rất xa? Nếu gần thì đã bị bắt vì chạy chậm hoặc đã chết vì nằm trong tầm hỏa lực của súng Mỹ.
•KB2: Đoàn người đi, đã trở về, nhưng trước tình huống địch tới đã bỏ chạy, bỏ rơi DTT một mình, với 5 thương binh.
•KB3: Đoàn người đã trở về cứu 5 thương binh, thì tại sao DTT lại không đi theo để săn sóc đó là nhiệm vụ chính của mình. Tất cả đi hết rồi, DTT ở lại chiến đấu làm gì?
Ba kịch bản trên đây đều là nghich lý. Và DTT đã nghi ngờ trong nhật ký là hợp lý theo kịch bản 4:
•KB: Tiếng chân người chạy là hư cấu vì thực tế trong tình hình nóng bỏng vào thời gian đó, không có ai về, để đem thương binh và DTT đi cả. Lời DTT đã nghi ngờ là bị bỏ rơi là đúng sự thật.
4.1.8.- Vết thương nạn nhân: Theo mô tả DTT nằm chết với cây súng, không thấy mô tả hầm trú ẩn, cho thấy DTT nằm chết trên mặt đất. Chỉ có một dấu đạn duy nhất trên trán nạn nhân (lời xác nhận của gia đình DTT). Đây là một điều nghịch lý vì với một người chiến đấu trên mặt đất trước hằng trăm viên đạn của 120 cây súng liên thanh tự động mà chỉ có một vết thương duy nhất?
Những ai đã từng tập bắn bia ở xạ trường sẽ biết rõ chỉ cần một tiểu đội bắn vào một tấm bia nhỏ (chứ đừng 120 cây súng bắn vào một con người) sẽ biết có bao nhiêu dấu đạn.
Với vết thương này chỉ có thể kết luận là bị lạc đạn chết mà thôi. Chứ không thể là vết thương của người trực tiếp chiến đấu trước số đông người được.
4.1.9.- Súng SKS hay CKC ? Trong thư ông Fred xác nhận cây súng trên mình DTT là súng SKS và ông đã giải thích:
Thứ Sáu, 6.5.2005
Em gái Kim,
... Kim hỏi về súng SKS. Em Kim ạ, tôi tin chắc câu chuyện mà người lính Mỹ nọ kể cho tôi nghe chính xác là về chị của các bạn. Người Mỹ gọi đó là súng trường SKS, đó không phải là AK47 mà là một khẩu súng bán tự động bắn từng phát một. Nhưng dù cho đó là súng gì thì cũng không khiến chúng ta phải ngờ ngợ về những giây phút cuối cùng của cuộc đời chị Thùy cũng như những hành động cuối cùng của chị. Mọi chi tiết khác quá giống nhau qua những câu chuyện bạn chị kể lại cũng như câu chuyện của người lính Mỹ kia.
Anh trai Fred. (Di sản DTT - talawas )
Với lời giải thích này ông đã xác quyết rằng trên xác DTT có cây súng SKS là loại súng bán tự động.
Nhưng thực tế trên chiến trường Việt Nam không hề có loại súng nào tên SKS cả mà chỉ có loại súng CKC hoặc SKZ mà thôi. Người biên tập đã sửa đổi súng SKS thành CKC như một lời xác nhận sự thật này. Không thể có sự lầm lẫn được, mà có thể giải đáp là không có cây súng đó hay chỉ là sự bịa đặt.
4.2.- THƯỢNG SĨ NGUYỄN TRUNG HIẾU:
Đây là nhân chứng thứ hai mà ông Fred đã kể ra trong thư với gia đình DTT:
5.2.1-Thứ bảy, 30.4.2005
Hiền và Kim,
Tôi nhớ rõ cái ngày đó tựa như hôm qua. Người lính đó là thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu, là phiên dịch cho đơn vị tôi. Anh ấy là một người bạn rất thân của tôi. Hôm ấy chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu, và sau khi đã tìm kiếm các tài liệu có giá trị quân sự chúng tôi bèn đem chất đống chúng lại để đốt. Trong khi tôi đang đốt các tài liệu thì Hiếu chặn tôi lại. Tay Hiếu cầm cuốn sổ nhật ký của chị các bạn và nói: “Fred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi.” Tôi vô cùng cảm động thấy Hiếu có thể kính trọng một kẻ thù nên làm theo lời anh. Nhiều đêm sau đó chúng tôi đã ngồi bên nhau và bắt đầu dịch cuốn nhật ký.
Nhưng chẳng được bao lâu, chiến tranh khiến tôi phải gác cuốn nhật ký qua bên. Khoảng một năm sau đó, trong khi tôi dịch thêm một số tài liệu với Hiếu thì anh lại một lần nữa nói với tôi rằng đây là cuốn nhật ký thứ hai của cô bác sĩ.
Fred (Di sản DTT - talawas)
Những nghi vấn trong câu chuyện này như sau:
•Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết quyển nhật ký của DTT có lửa? Trong khi tài liệu do chính tay ông Fred nhận được, đích thân tuyển chọn, số còn lại sửa soạn đốt đi.
•Ông Hiếu đã đọc tài liệu lúc nào? Tại sao lúc đọc phát hiện nhật ký có lửa lại không để riêng hay báo cho ông Fred biết để lưu ý, mà phải chờ lúc ông Fred đem thiêu hủy mới ngăn cản?
•Tại sao ông Hiếu biết quyển nhật ký (1970) là của Đặng Thùy Trâm trong khi trên bản nhật ký này ở trang đầu trang cuối không có ghi tên họ người viết nhật ký?
•Tại sao một năm sau, Hiếu lại có quyển nhật ký thứ hai (1968-1969)? Tại sao ông Fred không đặt ra nghi vấn về cuốn nhật ký này trong tay Hiếu? Đây là một trong hai cuốn nhật ký mà DTT đã bị ăn cướp theo như đã ghi trong nhật ký ngày 15-01-70 (Tr.216). Tính từ thời gian này đến ngày DTT chết 22-6-70 là hơn 5 tháng cọng thêm một năm sau tính từ ngày Fred nghe lời Hiếu nói nhật ký có lửa. Như vậy là cuốn nhật ký 68-69 đã lưu lạc trên dưới 18 tháng mới xuất hiện trong tay Hiếu đễ đưa cho ông Fred. Ở đây có 4 kịch bản xảy ra:
-KB.1: Cuốn nhật ký thất lạc trong rừng, 18 tháng sau Hiếu nhặt được ? Đây là chuyện hy hữu khó xảy ra vì sau 18 tháng tập sách phơi mưa nắng ở khó có thể còn nguyên vẹn và Hiếu cũng khó có thể tình cờ may mắn như vậy được.
-KB.2: Cuốn nhật ký này bị lính Mỹ hay lính VNCH tịch thu thì với thời gian này đã bị xử lý hoặc thiêu hủy rồi.
-KB.3: Đơn vị của Fred đã tịch thu từ lâu mà Hiếu đã ém lại để 18 tháng sau mới đưa ra lại càng nghịch lý.
Tóm lại ba kịch bản trên đây không có tính xác thực và khả thị. Vậy chỉ còn duy nhất kịch bản sau đây là hợp với tình huống trên mà thôi:
-KB.4: Cuốn nhật ký thực tế không bị ăn cướp, mà chính ban phản gián hay chính trị của đơn vị Thùy Trâm ăn cướp mà không cho DTT biết. Hành động này nằm trong kế hoạch đã được dàn dựng sẵn(?)(Sẽ có kết luận ở phần sau)4.2.2.- Theo báo Tuổi trẻ số 21.10.2005 - bài hành trình đi tìm Nguyễn Trung Hiếu kỳ cuối:
Ông Hiếu đã tiết lộ một tình tiết thú vị liên quan đến bài thơ Núi Đôi: Khi cuốn nhật ký lọt vào tay Nguyễn Trung Hiếu, một mảnh giấy rời chép nguyên văn bài thơ Núi Đôi được kẹp giữa những trang viết.
Nguyễn Trung Hiếu mê mẩn những câu thơ và đã đánh liều giữ lại nó cho mình trước khi đưa cho Fred cuốn sổ nhỏ. Tiếc là đến giờ ông không còn giữ được trang giấy viết tay mà ông cho đó là của người bạn tên MINH mà chị Thùy Trâm nhắc tới trong nhật ký đã chép tặng chị.
Tại sao trong nhật ký không kể lại chuyện M tặng bài thơ Núi Đôi? Một sự kiện quan trọng trong đời sống tình cảm của DTT. Trong nhật ký ngày 14.8.1968 (Tr.72) DTT chỉ ghi là Khiêm cũng rất thích bài “Núi đôi”. “Quê hương”.. mà không hề nhắc nhở gì đến M. cả.
Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết rõ tên Minh người yêu của Thùy Trâm là tên hoàn toàn viết tắt M. trong nhật ký?
4.3.- NHÂN CHỨNG CHÍNH QUYỀN::
Anh Tâm bí thư huyện ủy Đức Phổ hiện nay, cho biết anh được nghe kể lại trước khi hi sinh chị còn hô vang: “Hồ Chí Minh muôn năm. Đả đảo đế quốc Mỹ” (Tr.258)
Lời hô này xảy ra trước hay sau khi bị bắn? Trước khi chết không lo chiến đấu, mà hô khẩu hiệu để lộ mục tiêu ẩn núp cho địch bắn chết? Nếu sau khi bị bắn với viên đạn vào trán thì có còn thở được không chứ đừng nói là hô to. Viên đạn ở trán cũng giống như phát súng ân huệ của người chỉ huy bắn vào đầu tội phạm nơi pháp trường.
5. Nét bút thật của Đặng Thùy Trâm
Đây là niềm hãnh diện của Đặng Thùy Trâm, người trí thức XHCN toàn diện(?)
Với thành tích trên đã khơi động sự tò mò của người viết phải đi tìm lại dấu tích con đường học vấn của tác giả. Qua lời kể bà mẹ DTT:
Bà cụ nói: “Gia đình không tưởng tượng được là ngay ở Đức Phổ, Quảng Ngãi mà Thùy còn gây dựng được một vườn thuốc và người dân vẫn giữ gìn đến tận bây giờ”. Chị Kim Trâm tiếp lời: “Vốn kiến thức về dược liệu mà chị Thùy có đấy là được mẹ truyền cho từ ngày còn nhỏ. Trường y đâu có dạy chị về dược liệu, nhất là thuốc nam. Hồi bé, chúng tôi ở với cha mẹ ngay trong khu tập thể Bộ Y tế, đằng sau là một vườn thực vật rộng mênh mông. Ngoài giờ học và làm việc nhà, mấy chị em toàn chạy vào vườn thuốc chơi.
Chúng tôi lấy những lá chuối to che lại làm lều, “cắm trại” ngay trong vườn thuốc, trò chơi yêu thích nhất của chúng tôi là “đố cây đố lá”, lá này của cây gì, dùng để làm gì. Không biết thì về hỏi mẹ. Cứ như thế mà chúng tôi biết được tên gọi và công dụng của các cây thuốc trong vườn”.
Bà cụ lại tiếp: “Thùy nó học nhiều hơn ở cha. Thùy học chuyên khoa mắt, không học ngoại, nhưng hằng ngày sau khi học ở trường y về Thùy vẫn đến bệnh viện của cha để theo dõi cha mổ, để học thêm những kinh nghiệm điều trị của cha. Tối đến, hay vào các ngày nghỉ, hai cha con lại say sưa cùng nhau vẽ. Ông ấy không dạy Thùy vẽ tranh phong cảnh mà dạy con vẽ người trên các bức hình giải phẫu. Ông ấy vẽ đẹp lắm, Thùy nhờ cha cũng vẽ rất khá, và cũng từ các bức vẽ “anatomie” ấy, cùng với những lần theo cha đi trực giải phẫu mà sau này khi vào chiến trường, nó có thể bắt tay làm phẫu thuật thương binh được, dù học chuyên khoa mắt”. (Báo Tuổi trẻ 4-8-2005 bài ngọn nến vẫn cháy mãi)
Tóm lại DTT học tây y chuyên khoa mắt, nhưng ra làm chuyên viên giải phẫu đủ các loại bệnh và chữa trị bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn, chẳng khác gì các thầy thuốc lang băm. Một kỷ lục đáng hãnh diện ghi vào lịch sử phát triển y tế CNXH Việt Nam(?)
Đọc tiếp nhật ký (tr.314-315) “ Ai biết liệt sĩ Đặng Thùy Trâm? ... Chúng tôi đã hỏi trường Đại học Y khoa. Sở Lao động Thương binh-Xã hội, hỏi Ban liên lạc họ Đặng Việt Nam, đến cả Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam cũng không ai biết”.
DTT tốt nghiệp loại ưu là một vinh dự cho nhà trường và gia đình tại sao không có tên trong danh sách tốt nghiệp? Tại sao gia đình không có giữ một bằng chứng nào như văn bằng tốt nghiệp, hình ảnh lễ mãn khóa, tiệc mừng gia đình lúc DTT tốt nghiệp? Trong khi gia đình vẫn còn giữ hình ảnh những ngày cuối cùng trước khi vào Nam chiến đấu. Điều này chứng tỏ DTT không có làm lễ mãn khóa ra trường, không có đem văn bằng tốt nghiệp về cho gia đình lưu giữ (?)Chỉ có một câu trả lời hợp lý là DTT chưa bao giờ tốt nghiệp đại học y khoa. và DTT đã khai man lý lịch trước khi vào Nam chiến đấu?
Hãy nghe lời nhân chứng trong nkdtt (tr.319) lời của ông Ngô Sơn Huy (nguyên phó hiệu trưởng trường PTDL Đinh Tiên Hoàng) là bạn thân của Đặng Thùy Trâm như sau: “ Qua lời Trâm kể, tôi biết Trâm được tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội sớm một năm để đi chiến trường.”
Tại sao DTT lại tốt nghiệp sớm một năm? Theo thông lệ miền Nam sinh viên ra trường sớm hơn học trình đào tạo chỉ rơi vào những trường hợp học kém hay bị kỷ luật bị sa thải mà thôi. Sinh viên ở miền Bắc thì sao? chắc không ra ngoài thông lệ đó?
Hãy nghe DTT tự thú trong nhật ký:
23-07-69 (Tr.170)
Một chiếc bật lửa Mỹ có khắc tên mình cạnh tên người đồng chí thân yêu. Anh Đáo đưa nó cho mình và hỏi ai khắc. Mình cười vô tư rồi trả lại anh nhưng lúc ra về mình cảm thấy nao nao. M. ơi! Anh khắc tên em cạnh anh vì sao? Vì những ngày xưa thơ mộng vì tình thương yêu đằm thắm nơi anh vẫn còn hay vì đó là một động tác bình thường của anh? Thực ra không ai làm việc gì mà không có ý nghĩ. M. lại càng không phải là loại người như vậy nhưng M. ơi, anh hãy nói đi anh, vì sao anh khắc tên em bên cạnh tên người bộ đội giải phóng quân mà anh thường nói rằng không phù hợp với cô sinh viên y khoa ấy?
M là người yêu của DTT từ 8 năm trước, vẫn xem DTT là một sinh viên y khoa dù DTT đã làm việc với chức danh bác sĩ đã 3 năm qua, đây là điều nghịch lý trong nhật ký. Chỉ có thể lý giải một điều bí mật chỉ có giữa M. và DTT biết rất rõ mà thôi đó là : DTT là một sinh viên y khoa và chưa bao giờ tốt nghiệp và mãi mãi vẫn là một sinh viên y khoa trong lòng M. DTT đã chấp nhận sự thật đó! DTT không hề phản kháng hay hờn giận.
4.- NHỮNG NGHI VẤN XUNG QUANH CUỐN NHẬT KÝ:
Đây là phần nội dung biên soạn trong sách in do những người chỉnh lý biên soạn và nhân chứng liên quan hoàn toàn không có trong bản gốc nhật ký.
4.1 NGƯỜI LƯU GIỮ NHẬT KÝ:
Câu chuyện xuất phát từ ông tiến sĩ FREDERIC WHITEHURST, 35 năm về trước là một người lính trinh sát Hoa Kỳ có lưu giữ hai tập nhật ký của ĐTT, và ông đã có ý định tìm lại gia đình DTT để tính đến chuyện xuất bản tập nhật ký trên, phần sau là một trong những thư trao đổi đầu tiên giữa ông Frederic Whithurs với gia đình DTT.
Chủ nhật, 1.5.2005
Thưa bà Trâm,
Tôi mong rằng lá thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin đó là cái chết của con gái bà. Tôi ngồi chờ một trận đánh cùng một quân đoàn Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh trong quá khứ.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí và họ chỉ cần tích tắc để chặn một tay súng lại. Khi thấy bị bắn tiếp lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy rằng người đó chết trong khi bảo vệ các bệnh nhân của một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu SKS và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Di sản của DDT-Talawas)
Bức thư trên đã được chỉnh lý sửa đổi. Người biên tập đã ngang nhiên sửa đổi nội dung thư từ riêng của một luật sư tiến sĩ (có sự đồng ý của tác giả bức thư không?) đây là một điều xúc phạm nặng nề, khó chấp nhận được. Sau đây là bức thư bị sửa đổi:
20g27, chủ nhật 1-5-2005
Thưa bà Trâm.
Tôi mong rằng thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin: đó là trường hợp hi sinh của con gái bà. Tôi đang ngồi chờ một trận đánh cùng một đơn vị lính Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh đã từng tham dự.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị của anh ta gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh ta gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có một người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn hãy đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi đầu hàng là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy người đó đang bảo vệ các bệnh nhân trong một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu CKC và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Tr.259)
Phải chăng ông Fred sợ rằng gia đình không tin câu chuyện kể của mình , nên ông Fred đã cẩn thận nhấn mạnh lần thứ hai qua bức sau:
9g44, thứ hai, 2-5-2005.
Thưa bà Trâm.
Và giờ đây thắc mắc của tôi đã được giải đáp. Trận đánh mà người lính nọ tả lại cho tôi đúng là điều đã xảy ra. Con gái bà đã một mình chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo vệ các bạn mình.
Ở bất cứ đất nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là ANH HÙNG và những người anh hùng đều được tất cả mọi người tôn kính, dù người đó là đàn ông hay đàn bà. Thế giới phải được biết về sự dũng cảm của con gái bà và mãi mãi học hỏi được điều gì đó từ tình yêu và những suy nghĩ của chị. Fred (tr. 261)
Thưa ông tiến sỹ Frederic Whithurs qua nội dung bức thư tự giới thiệu:
Thứ Ba, 3.5.2005
Hiền và Hồ thân mến,
.... Khi trở về nhà sau chiến tranh, thân thể tôi chỉ bị thương chút ít nhưng trái tim tôi bị tổn thương. Ngay sau khi trở về tôi quay lại trường đại học và tiếp tục học môn hóa. Học xong đại học tôi tiếp tục làm tiến sĩ về hóa học ở đại học Duke trong năm năm rưỡi. Tôi nhớ đó là một thời gian rất khó khăn. Khi làm luận án tiến sĩ tôi cần có người tài trợ, và giáo sư hướng dẫn của tôi chọn người tài trợ là quân đội Mỹ.
Nhưng họ muốn tôi nghiên cứu về các vật liệu có chứa phốt-pho. Những nghiên cứu như thế có thể giúp phát triển một cuộc chiến tranh khí hóa học. Tôi tức giận từ chối và nói với giáo sư là tôi sẽ thôi không nghiên cứu nữa. Tôi sẽ không để cho người ta sử dụng mình để giết người một lần nữa. Giáo sư nói với tôi rằng một ngày kia tôi sẽ hiểu bất cứ điều gì do con người sáng tạo ra sẽ có một kẻ tìm cách sử dụng nó với những mục đích hủy hoại, đồng thời sẽ có người khác tìm cách sử dụng nó với mục đích tốt đẹp. Dẫu thế tôi vẫn từ chối và cuối cùng đề tài nghiên cứu của tôi là hóa học các-bon. Sau khi nhận được bằng tiến sĩ hóa học vào năm 1980 tôi tới Texas để tiếp tục học tập và nghiên cứu, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận thấy không thỏa mãn. Vậy là tôi lại làm việc cho chính phủ Mỹ một lần nữa và trở thành một nhân viên của FBI. Suốt bốn năm, mặc dù là tiến sĩ hóa học nhưng tôi lại làm một thám tử đặc biệt của FBI chuyên điều tra các vụ cướp nhà băng, bắt cóc trẻ em, các vụ ma túy có liên quan đến heroin, cần sa, cocain và các chất gây nghiện khác. Sau đó tôi chuyển tới làm ở một phòng thí nghiệm về các tội phạm hình sự của FBI, Washington D.C. Chính ở đó tôi đã trở nên nổi tiếng cả ở trong nước lẫn quốc tế. Các bạn thử gõ tên tôi trên Internet và xem người ta đã viết những gì. Cuối cùng tôi đã kiện Tổng thống Mỹ, Tổng Luật sư, Giám đốc FBI, Cơ quan FBI, Bộ Tư pháp Mỹ và Chính phủ Mỹ.Đó là cả một câu chuyện dài về một người đàn ông không làm ngơ trước những sai trái.Năm 1998, sau khi thắng tất cả các vụ kiện, tôi về hưu sớm, quay về sống ở cái xóm nhỏ Bethel để tiếp tục công việc và chăm sóc cha mẹ tôi.Năm 2000 cha tôi qua đời nhưng mẹ tôi còn sống và là một kho báu đối với gia đình tôi cũng như đối với tôi.Vì tôi có học luật trong những năm từ 1992 đến 1996 ở Đại học Georgetown ở Washington DC cho nên từ khoảng hai năm rưỡi nay tôi bắt đầu hành nghề luật. ... Fred (Di sản DTT - Talawas)
Ông là người có nhiều kinh nghiệm thực tế và kiến thức uyên bác như trên thì tôi không nghĩ là ông không biết (trừ phi ông cố tình không muốn biết) câu chuyên của người lính vô danh cách đây 35 năm chỉ là DỐI TRÁ, là HƯ CẤU. Thế mà ông vẫn cố tình tin là sự thật(?)để tạo dựng nên một mẫu anh hùng ĐẶNG THÙY TRÂM thì người viết đành phải đặt nghi vấn về sự trong sáng của cá nhân ông trong công việc lưu trữ nhật ký này bởi những nghịch lý sơ đẳng như sau:
4.1.1.- Quân số và đơn vị: Trước 1975 hệ thống binh quyền của lính Mỹ và VNCH được tổ chức theo lý thuyết là đơn vị nhỏ nhất là tiểu đội gồm 12 người, 3 tiểu đội gộp lại thành một trung đội, và ba trung đội thành một đại đội và 3 đại đội thành 1 tiểu đoàn. Và lệnh tác chiến phân bổ theo đơn vị chứ không theo số người dù rằng trên thực tế quân số đơn vị luôn luôn thiếu do hao hụt bởi cuộc chiến không bổ sung kịp. Như vậy con số 120 người lính nói trên thuộc bao nhiêu đơn vị?. Một đại đội quá thừa, mà hai đại đội quá thiếu quân số không phù hợp với thực tế . Như vậy chỉ có thể kết luận đây là con số 120 lính Mỹ chỉ là con số phóng đại trong cuộc hành quân nói trên. Phóng ảnh tr.290 báo cáo quân sự cho thấy chỉ có một trung đội hành quân lúc bấy giờ tức là dưới 36 người.
4.1.2.- Vũ khí, hỏa lực: Sau cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân, không kể các loại súng cộng đồng, hay đại liên, vũ khí cá nhân của hai bên cuộc chiến đã hoàn toàn thay đổi. lính miền Bắc sử dụng AK.47, riêng lính Mỹ và VNCH sử dụng súng M.16, M.15 đây là những loại súng tự động, bắn liên thanh hằng loạt với tốc độ nhanh, sát thương nhiều. Còn những loại súng bán tự động như carbin M.1, M.2, garant M.1, CKC không còn được dùng trong trực tiếp chiến đấu nữa vì hỏa lực yếu, tốc độ bắn chậm, dễ trở ngại tác xạ, các loại súng này chỉ được sử dụng canh gác thứ yếu ở những đơn vị phòng thủ cơ sở, hay nhát ma mà thôi.
Do vậy với hỏa lực SKS(?)chỉ có khả năng bắn tỉa bắn lén rồi chạy trốn làm gì có trực diện chiến đấu với 120 lính Mỹ. Vì chỉ cần nổ phát súng, lộ mục tiêu là banh thây ngay tích tắc chứ làm sao mà có thể cầm cự khá lâu. Đây là một sự hoang tưởng.
4.1.3.- Thực tế hành quân: Đội hình hành quân căn bản ở quân trường đã dạy, nhất là lính Mỹ lại càng được huấn luyện kỹ lưỡng hơn nữa, để tránh nhiều thương vong thì khi hành quân thường dùng đội hình quả trám hay đội hình hàng ngang và luôn luôn có toán trinh sát đi đầu. Như vậy DTT bất quá chỉ đụng phải toán trinh sát nhỏ này là đã chết bởi hỏa lực yếu kém của mình, đâu còn thời gian chờ 120 lính Mỹ đàng sau đi tới để chiến đấu trở thành anh hùng.
4.1.4.- Trở lại lời văn viết trong thư : “Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn”
Trong hành quân tác chiến, địch nổ súng vào mình tại sao không bắn trả theo phản xạ chiến trường, theo qui luật bất thành văn bắn chậm là chết, mà lại kêu gọi đầu hàng? Tại sao thấy người chạy trốn lại không bắn hay đuổi theo, trong khi muốn bắt họ? tại sao súng SKS lại có thể bắn được nhiều viên đạn bắn vào lính Mỹ mà 120 tay súng bắn lại khá lâu mới chặn được? Cũng là những điều nghịch lý.
4.1.5.- Đặng Thùy Trâm chiến đấu như một ANH HÙNG?
Chúng ta hãy nghe lời tự thuật của DTT trong nhật ký:
27-7-69 (Tr.173)
Bây giờ rất khó đi vì pháo bắn nên chị không thể dẫn đi được. Quả nhiên chưa nói dứt lời pháo đã nổ chát bên tai, lửa rực sáng cả khu vực mình ở. Đành phải ở lại nhà chị Thịnh đem nay một đêm đầu tiên mình phải sống bơ vơ không có ai đảm bảo cho mình ngoài những người dân đối với mình chỉ có một tình thương bình thường gần 3 năm nay đi đâu mình cũng vô tư mặc dù giữa tình hình rất căng thẳng mình vẫn yên tâm vì đã có người bảo vệ mình chu đáo, dựa vào họ mình không phải lo lắng gì cả. Đêm nay chỉ một mình mình lần đầu tiên kể từ ngày bước chân vào Nam mình phải suy nghĩ, địch càn xuống mình sẽ chạy đi đâu, nếu chúng tập kích vào đêm nay thì phải xử trí thế nào? Cần liên hệ với ai để có công sự ở
Tính vào thời điểm tháng 7-69, sau 3 năm vào Nam, DTT chưa một ngày trực tiếp chiến đấu, chưa hề cầm súng, đi đâu có người bảo vệ, chưa biết phản ứng ra sao khi địch tấn công.
Trong thư ông mô tả DTT một mình chiến đấu như là anh hùng, có phải DTT đã tự nguyện hay là bị bắt buộc chiến đấu? bị bỏ rơi không lối thoát? và đây là câu trả lời từ trong nhật ký DTT:
8.4.69 (Tr.139)
Địch càn, vào gần đến máng nước, còn một chút xíu nữa là cơ đồ của bệnh xá tan hoang. Biết địch gần sát bên nách mà sao mình bình tĩnh lạ lùng. Sau khi đưa thương binh đến chỗ trốn rồi mình quay lại đứng trong phòng mổ. Mình muốn thử xem nếu địch vào đến đây mình có đủ can đảm và linh hoạt giải quyết như những người thường hay ở lại hay không. Cuối cùng địch không vào và đêm đó mình lại ngủ ngon lành trong căn phòng trống trải lộn xộn giữa cảnh chạy càn.
28.4.69 (Tr.145)
Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có những cái lận đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Đảng vì thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh xá.
Chưa đến 6 giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay xách nách mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc trường Đảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ hôi được, mình đành động viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.
Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm chắc địch đã đến trạm trực nên quay vào báo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm gì thì anh em du kích dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đã vào đến máng nước rồi và tất cả nhân dân hối hả chạy.
Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải khiêng mà chỉ có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. “Không thể bỏ thương binh được, phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đồng chí ạ!”. Mình nói mà lòng thấy băn khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.
Mấy cas thương được chuyển đi, còn lại Kiệm - một thương binh cố định gãy xương đùi. Không biết làm sao mình gọi Lý - con bé học sinh - lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc, mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển giùm. May quá lại gặp Minh, Cơ - hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đã bắn chết đồng trí Vận - thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống hố trốn tạm một nơi.
Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu một mình Vận, còn cán bộ thì vắng chín đồng chí.
DTT đã bị bỏ rơi một mình với 5 thương binh nặng. Một giờ sau 9 cán bộ vẫn chưa về.
Hãy đọc tiếp trang nhật ký cuối cùng:
20.6.70 (Tr.255)
Đến hôm nay vẫn không thấy ai qua. Đã gần 10 ngày kể từ hôm bị bom lần thứ hai, mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp đến đón bọn mình ra khỏi khu vực nguy hiểm mà mọi người nghi là Điệp đã chỉ điểm nay. Từ lúc ấy, những người ở lại đếm từng giây phút, 6 giờ sáng mong chờ đến trưa, trưa mong cho đến chiều... Một ngày, hai ngày.. rồi chín ngày đã trôi đi mọi người vẫn không trở lại! Những câu hỏi cứ xoáy trong đầu óc mình và những người ở lại. Vì sao? lý do vì sao mà không trở lại. Có khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cách này sao?
Không ai trả lời bọn mình cả, mấy chị em hỏi nhau, bực bội, giận hờn rồi lại bật cười, nụ cười qua hai hàng nước mắt long lanh chực tràn ra trên mi mắt.
Hôm nay gạo chỉ còn ăn một bữa chiều nay là hết. Không thể ngồi nhìn thương binh đói được. Mà nếu đi, một người đi thì không đảm bảo, đường đi trăm nghìn nguy hiểm còn nếu đi hai người thì bỏ lại một người nếu có tình huống gì xẩy ra thì sao? Và không nói gì xa xôi, trước mắt trời sẽ ập nước xuống, một mình loay hoay lam sao cho kịp, chăng nilon trước thì sợ máy bay! Cuối cùng phải hai người đi chị Lãnh và Xăng ra đi, mình đứng nhìn hai người chị quần xắn tròn trên vế, lăn lội qua dòng suối nước chảy rầm rầm, tự nhiên nước mắt mình rưng rưng.
Qua những trang thư trên có thể kết luận rằng DTT chưa hề có một ngày trực tiếp cầm súng chiến đấu, DTT làm công tác hậu cần săn sóc thương binh, và đã từng bị bỏ rơi một mình khi có tình huống địch càn, và không có có kinh nghiệm úng xử lúc lâm trận thì làm gì có chuyện anh hùng chống 120 lính Mỹ. Cũng giống như hình ảnh những cán binh mặt còn búng ra sửa, không biết lý do vì sao mà phải đi chiến đấu, bị xích lại trong xe tăng lầm lũi tiến đến trong lửa đạn vì số lùi đã bị phá hỏng trong tết Mậu Thân tại thành Nội Huế. Cũng được ca ngợi là anh hùng?
DTT chết trong hoàn cảnh bỏ rơi một mình chỉ là trường hợp vắt chanh bỏ vỏ mà thôi.
4.1.6.- Thương binh ở đâu:? Theo mô tả tình huống trong lá thư ngày 17-06-70 (Tr.253)
“Ngày này Moran không quân, không khí im lặng thỉnh thoảng từng đợt những chiếc HU1A quần sát trên đồi, chắc chắn địch ở quanh khu vực này. Chỉ có ba chị em gái ở nhà cùng với năm thương binh cố định”
Ngày 20.6.70 hai người đi tìm lương thực, chỉ còn lại một mình DTT và 5 thương binh nặng nằm một chỗ.
Ngày 22.6.70 DTT chết tại sao không bắt được người nào? Vậy 5 thương binh ở đâu? Không lẽ 120 lính khỏe mạnh không chạy kịp 5 thương binh nằm tại chỗ ?
4.1.7.- Tiếng chân người? Với tình huống hiện trường như trên, thì một nghi vấn đặt ra là tiếng chân người chạy là ai? ở đây có nhiều kịch bản xảy ra trong ngày 21 và 22 như sau:
•KB1: Đoàn người không về. DTT phải chiến đấu cản đường với cây súng SKS để cho thương binh trốn thoát? Những thương binh nằm liệt giường mà còn khả năng chạy tạo nên tiếng chân thình thịch cho lính Mỹ nghe thấy? Với khoảng cách giữa địch và lính Mỹ phải rất xa? Nếu gần thì đã bị bắt vì chạy chậm hoặc đã chết vì nằm trong tầm hỏa lực của súng Mỹ.
•KB2: Đoàn người đi, đã trở về, nhưng trước tình huống địch tới đã bỏ chạy, bỏ rơi DTT một mình, với 5 thương binh.
•KB3: Đoàn người đã trở về cứu 5 thương binh, thì tại sao DTT lại không đi theo để săn sóc đó là nhiệm vụ chính của mình. Tất cả đi hết rồi, DTT ở lại chiến đấu làm gì?
Ba kịch bản trên đây đều là nghich lý. Và DTT đã nghi ngờ trong nhật ký là hợp lý theo kịch bản 4:
•KB: Tiếng chân người chạy là hư cấu vì thực tế trong tình hình nóng bỏng vào thời gian đó, không có ai về, để đem thương binh và DTT đi cả. Lời DTT đã nghi ngờ là bị bỏ rơi là đúng sự thật.
4.1.8.- Vết thương nạn nhân: Theo mô tả DTT nằm chết với cây súng, không thấy mô tả hầm trú ẩn, cho thấy DTT nằm chết trên mặt đất. Chỉ có một dấu đạn duy nhất trên trán nạn nhân (lời xác nhận của gia đình DTT). Đây là một điều nghịch lý vì với một người chiến đấu trên mặt đất trước hằng trăm viên đạn của 120 cây súng liên thanh tự động mà chỉ có một vết thương duy nhất?
Những ai đã từng tập bắn bia ở xạ trường sẽ biết rõ chỉ cần một tiểu đội bắn vào một tấm bia nhỏ (chứ đừng 120 cây súng bắn vào một con người) sẽ biết có bao nhiêu dấu đạn.
Với vết thương này chỉ có thể kết luận là bị lạc đạn chết mà thôi. Chứ không thể là vết thương của người trực tiếp chiến đấu trước số đông người được.
4.1.9.- Súng SKS hay CKC ? Trong thư ông Fred xác nhận cây súng trên mình DTT là súng SKS và ông đã giải thích:
Thứ Sáu, 6.5.2005
Em gái Kim,
... Kim hỏi về súng SKS. Em Kim ạ, tôi tin chắc câu chuyện mà người lính Mỹ nọ kể cho tôi nghe chính xác là về chị của các bạn. Người Mỹ gọi đó là súng trường SKS, đó không phải là AK47 mà là một khẩu súng bán tự động bắn từng phát một. Nhưng dù cho đó là súng gì thì cũng không khiến chúng ta phải ngờ ngợ về những giây phút cuối cùng của cuộc đời chị Thùy cũng như những hành động cuối cùng của chị. Mọi chi tiết khác quá giống nhau qua những câu chuyện bạn chị kể lại cũng như câu chuyện của người lính Mỹ kia.
Anh trai Fred. (Di sản DTT - talawas )
Với lời giải thích này ông đã xác quyết rằng trên xác DTT có cây súng SKS là loại súng bán tự động.
Nhưng thực tế trên chiến trường Việt Nam không hề có loại súng nào tên SKS cả mà chỉ có loại súng CKC hoặc SKZ mà thôi. Người biên tập đã sửa đổi súng SKS thành CKC như một lời xác nhận sự thật này. Không thể có sự lầm lẫn được, mà có thể giải đáp là không có cây súng đó hay chỉ là sự bịa đặt.
4.2.- THƯỢNG SĨ NGUYỄN TRUNG HIẾU:
Đây là nhân chứng thứ hai mà ông Fred đã kể ra trong thư với gia đình DTT:
5.2.1-Thứ bảy, 30.4.2005
Hiền và Kim,
Tôi nhớ rõ cái ngày đó tựa như hôm qua. Người lính đó là thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu, là phiên dịch cho đơn vị tôi. Anh ấy là một người bạn rất thân của tôi. Hôm ấy chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu, và sau khi đã tìm kiếm các tài liệu có giá trị quân sự chúng tôi bèn đem chất đống chúng lại để đốt. Trong khi tôi đang đốt các tài liệu thì Hiếu chặn tôi lại. Tay Hiếu cầm cuốn sổ nhật ký của chị các bạn và nói: “Fred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi.” Tôi vô cùng cảm động thấy Hiếu có thể kính trọng một kẻ thù nên làm theo lời anh. Nhiều đêm sau đó chúng tôi đã ngồi bên nhau và bắt đầu dịch cuốn nhật ký.
Nhưng chẳng được bao lâu, chiến tranh khiến tôi phải gác cuốn nhật ký qua bên. Khoảng một năm sau đó, trong khi tôi dịch thêm một số tài liệu với Hiếu thì anh lại một lần nữa nói với tôi rằng đây là cuốn nhật ký thứ hai của cô bác sĩ.
Fred (Di sản DTT - talawas)
Những nghi vấn trong câu chuyện này như sau:
•Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết quyển nhật ký của DTT có lửa? Trong khi tài liệu do chính tay ông Fred nhận được, đích thân tuyển chọn, số còn lại sửa soạn đốt đi.
•Ông Hiếu đã đọc tài liệu lúc nào? Tại sao lúc đọc phát hiện nhật ký có lửa lại không để riêng hay báo cho ông Fred biết để lưu ý, mà phải chờ lúc ông Fred đem thiêu hủy mới ngăn cản?
•Tại sao ông Hiếu biết quyển nhật ký (1970) là của Đặng Thùy Trâm trong khi trên bản nhật ký này ở trang đầu trang cuối không có ghi tên họ người viết nhật ký?
•Tại sao một năm sau, Hiếu lại có quyển nhật ký thứ hai (1968-1969)? Tại sao ông Fred không đặt ra nghi vấn về cuốn nhật ký này trong tay Hiếu? Đây là một trong hai cuốn nhật ký mà DTT đã bị ăn cướp theo như đã ghi trong nhật ký ngày 15-01-70 (Tr.216). Tính từ thời gian này đến ngày DTT chết 22-6-70 là hơn 5 tháng cọng thêm một năm sau tính từ ngày Fred nghe lời Hiếu nói nhật ký có lửa. Như vậy là cuốn nhật ký 68-69 đã lưu lạc trên dưới 18 tháng mới xuất hiện trong tay Hiếu đễ đưa cho ông Fred. Ở đây có 4 kịch bản xảy ra:
-KB.1: Cuốn nhật ký thất lạc trong rừng, 18 tháng sau Hiếu nhặt được ? Đây là chuyện hy hữu khó xảy ra vì sau 18 tháng tập sách phơi mưa nắng ở khó có thể còn nguyên vẹn và Hiếu cũng khó có thể tình cờ may mắn như vậy được.
-KB.2: Cuốn nhật ký này bị lính Mỹ hay lính VNCH tịch thu thì với thời gian này đã bị xử lý hoặc thiêu hủy rồi.
-KB.3: Đơn vị của Fred đã tịch thu từ lâu mà Hiếu đã ém lại để 18 tháng sau mới đưa ra lại càng nghịch lý.
Tóm lại ba kịch bản trên đây không có tính xác thực và khả thị. Vậy chỉ còn duy nhất kịch bản sau đây là hợp với tình huống trên mà thôi:
-KB.4: Cuốn nhật ký thực tế không bị ăn cướp, mà chính ban phản gián hay chính trị của đơn vị Thùy Trâm ăn cướp mà không cho DTT biết. Hành động này nằm trong kế hoạch đã được dàn dựng sẵn(?)(Sẽ có kết luận ở phần sau)4.2.2.- Theo báo Tuổi trẻ số 21.10.2005 - bài hành trình đi tìm Nguyễn Trung Hiếu kỳ cuối:
Ông Hiếu đã tiết lộ một tình tiết thú vị liên quan đến bài thơ Núi Đôi: Khi cuốn nhật ký lọt vào tay Nguyễn Trung Hiếu, một mảnh giấy rời chép nguyên văn bài thơ Núi Đôi được kẹp giữa những trang viết.
Nguyễn Trung Hiếu mê mẩn những câu thơ và đã đánh liều giữ lại nó cho mình trước khi đưa cho Fred cuốn sổ nhỏ. Tiếc là đến giờ ông không còn giữ được trang giấy viết tay mà ông cho đó là của người bạn tên MINH mà chị Thùy Trâm nhắc tới trong nhật ký đã chép tặng chị.
Tại sao trong nhật ký không kể lại chuyện M tặng bài thơ Núi Đôi? Một sự kiện quan trọng trong đời sống tình cảm của DTT. Trong nhật ký ngày 14.8.1968 (Tr.72) DTT chỉ ghi là Khiêm cũng rất thích bài “Núi đôi”. “Quê hương”.. mà không hề nhắc nhở gì đến M. cả.
Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết rõ tên Minh người yêu của Thùy Trâm là tên hoàn toàn viết tắt M. trong nhật ký?
4.3.- NHÂN CHỨNG CHÍNH QUYỀN::
Anh Tâm bí thư huyện ủy Đức Phổ hiện nay, cho biết anh được nghe kể lại trước khi hi sinh chị còn hô vang: “Hồ Chí Minh muôn năm. Đả đảo đế quốc Mỹ” (Tr.258)
Lời hô này xảy ra trước hay sau khi bị bắn? Trước khi chết không lo chiến đấu, mà hô khẩu hiệu để lộ mục tiêu ẩn núp cho địch bắn chết? Nếu sau khi bị bắn với viên đạn vào trán thì có còn thở được không chứ đừng nói là hô to. Viên đạn ở trán cũng giống như phát súng ân huệ của người chỉ huy bắn vào đầu tội phạm nơi pháp trường.
5. Nét bút thật của Đặng Thùy Trâm
5.1.- NÉT BÚT:
Dựa vào sự khác biệt của lối bỏ dấu, sự khác biệt của chữ G, chữ N, phong cách viết, người viết tìm thấy có sáu nét chữ khác biệt trong nhật ký như sau:
Nét bút của người thứ hai
5.1.2. Người thứ hai: có nét chữ nắn nót, chữ G thường đá cao lên đầu, có chữ ký cũng khác biệt chữ ký của DTT. Mặc dù đương sự cố bắt chước theo nhưng vẫn thấy rõ nét khác biệt, sau đây là toàn bộ nét chữ và vị trí viết của người thứ hai.
5.1.3. Người thứ ba: Xem lại BT7 có chữ XHCN được viết ở dưới địa chỉ trang cuối của quyển 1. Đặc biệt nét nút này viết cẩu thả, chữ g đi thẳng xuống không hề đá lên như của DTT và người thứ hai.
5.1.4 Người thứ tư: là người vẽ hình bìa trang đầu quyển 2. Chữ T hoa (Xuân Canh Tuất) của người này hoàn toàn khác các người trên. Nét chữ còn vụng về, không vững chải).
5.1.5 Người thứ năm: Nét bút của lá thư Khiêm dán vào Nhật Ký
5.1.6 Người thứ sáu: Nét bút lá thư của Thuận dán vào Nhật ký.
5.1.7.- DTT: Tác giả đã viết nội dung chính của nhật ký và câu đầu tiên của trang thứ nhất quyển 1
BT.1 Nét bút DTT ở trang 1 quyển 1
BT2 Nét bút DTT ở những trang trong nhật ký
BT.3: trang 1 quyển 2: Cùng nội dung với (BT1) nhưng nét bút và chữ ký hoàn toàn khác.
BT.4: bên trái trang 1 quyển 1
BT.5: trang 2 quyển 1
BT.6: trang 3 quyển 1
Loại ra nét chữ của DTT và hai lá thư được dán vào, còn lại 3 nét chữ của ai?
NGƯỜI THỨ HAI là ai? Đây là người đã 7 lần viết vào nhật ký DTT
Người viết dùng phương pháp loại suy và đi ngược thời gian đi tìm dấu vết của người thứ hai như sau:
•Chữ ký ở trang ngày 1.2-.70 (BT.8) chỉ có thể ký sau ngày này khi trang nhật ký đã được viết.
•Những dòng địa chỉ ở trang cuối quyển 1 (BT.7) phải được ghi sau ngày kết thúc nhật ký 04-12-69 và trước ngày 15-01-70 (là ngày bị mất nhật ký) (Điểm suy luận này sẽ được xét lại ở phần sau)
•Dòng chữ “Đời phải trải qua giông tố nhưng chớ cúi đầu trước giống tố ở trang 3 quyển 1 (BT.6) giống câu DTT ghi nhật ký ngày 30-6-1968. Vậy ai đã sao chép của ai? Ở đây có thể phân tích hai trường hợp:
-Trường hợp 1: DTT sao chép của người thứ hai, tức là nét chữ ở trang 3 quyển 1 (BT.6) phải được viết trước ngày 30-6-68 là ngày ghi nhật ký.
-Trường hợp người thứ hai sao chép của DTT, tức là nét chữ này ghi sau ngày 30-6-68 và trước ngày mất nhật ký 15.01.70
•Dòng chữ “Những ngày rực lửa, vui buồn tràn ngập giữa tim ta” của DTT (BT.1) trang 1 quyển 1 được người thứ hai chép sai lại ở trang 1 quyển 2 (BT.3)
•Người thứ hai đã 4 lần viết vào nhật ký, với nội dung vay mượn của Hoàng văn Thụ (BT.9), N.A. OSTROTSKY (BT.5), và DTT (BT.3 và BT.6). Chứng tỏ người thứ hai không có bản lĩnh sáng tạo hay nói cách khác trình độ rất kém xa DTT. Chỉ có khoa trương bề ngoài qua nắn nót chữ viết thôi.
•Tên DTT (BT.4) có thể viết cùng một ngày viết địa chỉ (BT.7).
•Quyển 2 nhật ký luôn luôn ở bên mình DTT từ ngày viết cho đến khi chết thế mà đã có nét bút người thứ hai. Vậy người thứ hai viết lúc nào. Có hai giả thiết:
-Được thêm vào sau khi DTT đã chết thì người thứ hai là lính Mỹ hay Nguyễn Trung Hiếu. Nhưng hai người này làm sao biết được tên cha, mẹ và địa chỉ của DTT để viết vào trang cuối quyển 1 (BT.7). Vì nét chữ địa chỉ và nét chữ trang đầu quyển 2 đều của người thứ 2. Vậy giả thiết này không vững.
-Người thứ hai đã viết vào nhật ký lúc DTT còn sống, và biết rõ lý lịch DTT không ai khác hơn là người trong đơn vị, có thẩm quyền đọc nhật ký, kiểm tra mọi hành vi của DTT. Đây có phải là một sự xúc phạm nhân phẩm xen vào đời tư người khác không?
Ngoài ra còn một nghi vấn nữa, tại sao DTT khi viết nhật ký lại chừa 7 trang giấy trắng (tức là 4 trang đầu của bản copy) ? là một điều bất thường trong tình hình khan hiếm giấy mực của thời chiến tranh. Trong khi quyển thứ 2 chỉ chừa lại 2 trang đầu như thường lệ.
NGƯỜI THỨ BA và THỨ TƯ chỉ xuất hiện một lần trong nhật ký, không đóng vai trò quyết định, cũng không loại trừ hai người này là một. Họ là ai mà có thể ghi vào nhật ký?
Như vậy chỉ có người thứ hai đã nhiều lần đọc nhật ký DTT, nhiều lần ghi chép vào nhật ký, thậm chí lại còn biết rõ tên cha mẹ, địa chỉ của từng người để viết vào nhật ký. Trong thời gian này DTT không có người yêu, cũng không có người thân gia đình. Thì chỉ có thể kết luận người thứ hai là người có thẩm quyền nắm sinh mạng chính trị của DTT. Đó là bí thư chi bộ hay chính trị viên đơn vị. Và người này đã cho lệnh DTT viết nhật ký với điều kiện chừa lại 7 trang đầu để đơn vị kiểm duyệt, và mỗi lần ghi vào nhật ký là đánh dấu một lần kiểm tra?
Tổng hợp nội dung hai phần 4 và 5.1 người viết có thể tạm đúc kết câu chuyện dàn dựng như sau: Vào thời kỳ sau 1968 phong trào phản chiến Mỹ lên cao, các đơn vị Việt Cọng được mật lệnh khuyến khích viết nhật ký (theo xác nhận của Thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu với báo Tuổi Trẻ là có 40% lính CS viết Nhật ký), dưới sự giám sát theo dõi của Đảng. Sự kiện viết nhật ký này có ba tác dụng : 1- Kiểm soát tư tưởng đảng viên . 2- Nếu đảng viên chết thì đem nhật ký này về động viên gia đình . 3- Nếu nhật ký có giá trị tuyên truyền phản chiến thì được Mỹ ăn cướp(?)sau khi đã cắt xén hoặc thêm bớt theo nhu cầu cuộc chiến.
Nhật ký DTT đã từng bị kiểm duyệt và được đánh giá có thể sử dụng theo tác dụng thứ ba là làm tài liệu tuyên truyền. Do vậy đơn vị (Đảng) đã đánh cắp nhật ký DTT, gởi thượng cấp phê duyệt, nghiên cứu hơn một năm sau mới được chấp thuận cho làm tài liệu tuyên truyền. Sau đó người đạo diễn chính là người thứ hai viết tên địa chỉ nơi làm việc cha mẹ DTT vào nhật ký trước khi bố trí cho Hiếu nhặt được cuốn nhật ký này? Trước đó Hiếu đã từng bị lợi dụng Hiếu được rỉ tai là nhật ký có lửa, rồi Hiếu báo lại cho Fred biết về nhật ký của DTT, chứ thật sự Hiếu chưa hề đọc trước nhật ký DTT.
Ở đây còn có một nghi vấn nữa tại sao lại không ghi địa chỉ cư trú của gia đình DTT, mà lại ghi rỏ tên cha, mẹ và hai địa chỉ làm việc của họ? Theo lời khai của gia đình Cha DTT tiểu tư sản lý lịch không rõ ràng, đến chết chưa được vào đảng dù là chuyên viên giải phẫu xuất sắc. Mẹ là dược sĩ, đối tượng đảng sau 30 năm mới được kết nạp. Vào thời điểm DTT vào miền Nam cha mẹ của DTT ở trong diện lý lịch không rõ ràng, nằm trong thành phần nghi ngờ, (thành phần có vấn đề). Vì thế sự tiết lộ tên cha mẹ địa chỉ làm việc trong nhật ký đã được tính toán kỹ như là một cái bẩy chờ bắt cá cả ổ, nếu cha mẹ DTT có sơ hở gì sau khi nhật ký DTT rơi vào tay địch mà thôi.
5.2.- NHẬT KÝ LÀ GÌ?:
Với tự điển trên tay bạn đọc có thể tìm thấy câu trả lời dễ dàng, thế nhưng đối với DTT nhật ký lại mang ý nghĩa khác. Và sau đây có thể là một trong những câu trả lời đó:
5.2.1.- LÀ NHỮNG CHUYỆN HƯ CẤU
Theo Nguyễn Bình “Đọc Nhật ký DTT” - Đàn Chim Việt:
Trước hết về cái chết của Khiêm. Trong nhật ký đề ngày 14.8.68 DTT viết “ Khiêm đã chết rồi! Trong một buổi càn giặc Mỹ đã tìm thấy công sự của Khiêm. Chúng mở nắp công sự, Khiêm vọt lên dùng quả lựu đạn duy nhất trong tay quăng vào lũ giặc. Bọn quỷ khát máu sợ hãi nằm rạp xuống. Khiêm chạy được một đoạn nhưng quả lựu đạn chó chết đã câm, bọn giặc chồm dậy đuổi theo Khiêm và đến băm nát người Khiêm. Khiêm chết rồi, đôi mắt đen dịu hiền giờ đây mở trừng căm giận. Mái tóc đen xanh của Khiêm giờ đây đẫm máu và bụi cát.. Chiếc áo Ninfan màu xám giờ đây rách nát và loang lổ máu“Đọc đoạn trên chúng ta có cảm tưởng là DTT đang trốn ở đâu đó, gần nơi Khiêm bị giết. DTT đã mô tả rất rõ ràng từng chi tiết.
Nhưng đọc tiếp thì mình mới thấy “nghe tin..” tức là do người khác kể lại! Vậy ai đã khiếp nhược nằm trốn để chứng kiến cảnh “đồng chí” của mình bị giết, hay đó là óc tưởng tượng của DTT. Vì chỉ có DTT thì mới có thể nhìn và nhận ra chiếc áo “ Ninfan màu xám” đầy ắp kỷ niệm “Chiếc áo ấy Khiêm đã mặc hôm đầu tiên gặp mình, cũng chiếc áo ấy Khiêm đã cùng Th. len lỏi trên con đường nhỏ hẹp đầy gai lưỡi hùm&.. Và cũng chiếc áo ấy một đêm trăng đẹp từ Phổ Khánh trở về. Gió lạnh từ biển thổi vào làm Kh. Khẽ run.Th. đã đưa chiếc áo của Quế cho Khiêm mặc, trên nền áo xám giản dị nổi bật màu đỏ đậm đà như lời nói Khiêm hôm ấy: “ Thùy ơi! Trên đời này trừ ba má, Khiêm không thương ai hơn Thùy, kể cả người yêu Khiêm”.
Chúng ta phải đợi đến 13 ngày sau (17.9.68) khi “ Nghe chị Cấp kể lại ngày hy sinh càng thương Khiêm đến đứt ruột”. Điều này chứng tỏ nhật ký ngày 14.8.68 là không có thật, đó là sản phẩm của óc tưởng tượng của DTT ( hay của ai đó). Ngoài ra chúng ta hãy nghe chị Cấp kể tiếp “ Cha Khiêm hai tay bị trói chặt, vai ròng ròng máu vì vết thương. Khi nhìn thấy xác Khiêm dòng nước mắt ông tuôn trào, trong đôi mắt rực lửa căm thù và đau xót ấy người ta đã thấy tình thương vĩ đại của người cha”. Chúng ta thấy ngay cảnh bọn lính Mỹ đã bắt được cha của Khiêm, và dẫn đến để nhìn xác con !?.
Người kể lại cảnh này phải là một cán binh CS, bị bắt cùng với cha của Khiêm, nên mới có thể nhìn rõ “ đôi mắt rực lửa căm thù”. Như vậy người đó được thả ra lúc nào để kể lại cho chị Cấp nghe?
Câu chuyện thứ 2:
19-02-69 (Tr.126)
:... Một buổi sáng trên đường hành quân cũng rừng cây cao im lặng cũng ánh nắng hồng chói chan trên đỉnh núi... một buổi sáng dưới đồng bằng nắng xuyên qua rặng tre len lỏi chiếu lên chiếc bàn sau khung cửa...
DTT đã đi hành quân diệt Mỹ với tâm hồn của nhà văn? Đọc đoạn sau là lời tự thú của DTT
27-7-69 (Tr.173)
Đêm nay một đêm đầu tiên mình phải sống bơ vơ không có ai đảm bảo cho mình ngoài những người dân đối với mình chỉ có một tình thương bình thường gần 3 năm nay đi đâu mình cũng vô tư mặc dù giữa tình hình rất căng thẳng mình vẫn yên tâm vì đã có người bảo vệ mình chu đáo, dựa vào họ mình không phải lo lắng gì cả. Đêm nay chỉ một mình lần đầu tiên kể từ ngày bước chân vào Nam mình phải suy nghĩ, địch càn xuống mình sẽ chạy đi đâu, nếu chúng tập kích vào đêm nay thì phải xử trí thế nào? Cần liên hệ với ai để có công sự ở.
DTT đã tự tố cáo vẫn còn vô tư trước tình hình căng thẳng thì làm sao có thể xảy ra cảnh DTT đi hành quân ở đoạn trên. Như vậy chuyện đi hành quân ở trên là chuyện hư cấu để viết văn chơi mà thôi chứ không có thật.
5.2.2.- LÀ LỜI NÓI DỐI HOANG TƯỞNG:
26.07.69 (Tr.172)
Đoàn du kích đi cõng đàn về qua Khe Sanh bị phục kích tại núi cửa, mấy thằng Mỹ đi phục mà nằm ngủ như chết, mấy đồng chí của mình đi sát đến nơi mới nhận ra những thằng Mỹ nằm ngổn ngang trên những tảng đá. Vì vội vàng, một đồng chí lọt chân rơi xuống vực sâu may mà vướng một mỏm đá nên mắc lại, bọn Mỹ liệng mìn ra nhưng không gây thiệt hại gì.
Cả toán lính Mỹ phục kích mà lại nằm ngủ ngổn ngang trên những tảng đá? Tại sao đoàn du kích (đông người?) không giết lính Mỹ lúc ngủ để lấy vũ khí lập thành tích cá nhân cơ hội ngàn năm một thủa, mà để Mỹ liệng mìn chạy trối chết như vậy? Một đồng chí rơi xuống vực thẳm kẹt vào mỏm đá bị mìn không chết? mà còn leo lên được thoát khỏi sự phục kích của Mỹ? Phải chăng cả bọn Mỹ còn nhắm mắt ngũ sau khi liệng mìn?
5.2.3.- LÀ NƠI BÁO CÁO THÀNH TÍCH TUYÊN TRUYỀN
19.9.68 (Tr.83)
Em Hằng, 14 tuổi trong 6 tháng đần năm giết được 6 tên Mỹ, đánh lật được hai xe bằng vũ khí tự tạo, lấy được bảy súng giặc trong có hai cối cá nhân và các loại khác. Em Phổ Châu lấy năm súng có hai cối cá nhân, một đài RC. Các em đã anh hùng từ trong trứng nước. Đáng tự hào thay dân tộc của ta!
30.08.1969 (Tr.186)
Trong một tuần chiến đấu liên tục ta diệt 14 tăng, 1 HU1A, 15 xe nhà binh, diệt 150 tên Mỹ, một du kích hy sinh, 2 đồng chí bị thương.
Chỉ có lính Mỹ chết, còn lính VNCH không chết trong các cuộc hành quân hỗn hợp(?).
5.2.4.- LÀ SỔ TAY LÀM VIỆC HỘI HỌP HẰNG NGÀY:
29.11.68 (Tr.100)
Chỉnh huấn Đảng:
Ưu:
•Tập thể kiên định, không sợ ác liệt, không ngại hy sinh hoàn thành nhiệm vụ
•Ý thức tổ chức cao
•Hòa nhã được quần chúng yêu mến
•Lo lắng cảm thông với thương binh tốt
•Công tác huấn luyện tốt
Khuyết:
•Lãnh đạo không quán xuyến hết
•Còn thiếu linh hoạt trong công tác có lúc chưa tranh thủ hết sự lãnh đạo tập thể
•Tác phong còn tiểu tư sản
•Công tác bảo mật phòng gian còn yếu
•Kiểm tra đôn đốc thực hiện còn yếu.
16.03.69 (Tr.134)
Chỉnh huấn Đảng, học tập 3 xây, 3 chống. Ý kiến đóng góp của chi bộ
Ưu:
•Lãnh đạo có nhiều tiến bộ, quán triệt nhiệm vụ, quán xuyến các mặt công việc.
•Làm trọn nhiệm vụ nặng nề trên giao phó
•Lập trường tư tưởng kiên định, ý thức tổ chức cao
•Kế hoạch sát sao, có kiểm tra đôn đốc
Khuyết:
•Còn có lúc có nơi chưa sâu sát công việc
•Chưa tận dụng hết khả năng nghiên cứu rút kinh nghiệm kịp thời trong công tác điều trị
•Chăm lo cải thiện đời sống cho cán bộ còn yếu
5.2.5.- LÀ NƠI THỀ TRẢ THÙ DIỆT MỸ MÀ DTT KHÔNG CẦN ĐI HÀNH QUÂN.
10-01-69 (Tr.117)
:... Biết nói thế nào đây... một ngày còn bóng giặc Mỹ, một ngày còn đau thương tang tóc. Ôi! Mối thù này bao giờ mới trả hết đây.
28-4-69 (Tr.148)
Không có con đường nào khác hơn là phải đánh cho không còn một tên đế quốc Mỹ nào trên đất nước chúng ta lúc đó mới có thể có hạnh phúc
05-11-69 (Bản in cắt bỏ)
[BG: Ôi! Giặc Mỹ chồng bao tội ác của bay đã chất đầy như núi. Còn sống ngày nào tao thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để trả được mối thù vạn kiếp đó.]
05-05-70 (Bản in cắt sửa đổi)
[BG: Cuộc chiến tranh lan rộng trên dải đất Đông Dương, thằng chó đểu Nickson đã liều lĩnh điên cuồng mở rộng thêm cuộc chiến, chúng ta sẽ phải đương đầu với một khó khăn ghê gớm hơn nữa đấy. Nhưng tao thề cùng những đồng chí của tao rồi, dù có chết cũng quyết định đánh cho đến cùng để đánh giập đầu con rắn độc hiếu chiến.
Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột, tại sao cũng là con người mà lại có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng loại để làm nước tưới cho gốc cây vàng của nó, như vậy, bao nhiêu cũng không đủ túi tham, bao nhiêu cũng không thỏa mãn cái cuồng vọng của bọn quỷ khát máu.]
Đối với lời thề rất sắt máu nhưng không trực tiếp cầm súng giết địch.
5.2.6.- LÀ NƠI CÓ THỂ LÀM TRÁI LỆNH ĐẢNG.
Hồ Chí Minh đã ra lệnh chiến đấu “Đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào” thế mà DTT chỉ có đánh Mỹ qua nội dung 5.2.5 chứ không căm thù đánh Ngụy. Trong báo cáo thành tích cũng không có xác ngụy. Như vậy DTT đã không chấp hành nghiêm túc lệnh Đảng. DTT ngang nhiên không chấp hành đúng mệnh lệnh của Đảng mà vẫn được tuyên dương điển hình toàn tỉnh.
5.2.7.- LÀ NƠI CA TỤNG LÝ TƯỞNG CS VÀ XHCN TỐT ĐẸP. Để cho ai đọc?
08-10-68 (Tr.86)
:... Người Cọng Sản rất yêu cuộc sống nhưng khi cần có thể nhẹ nhàng mà chết được.
01-9-68 (Tr.78)
Biết sống sao đây, tốt hơn hết là Thùy hãy ngẩng cao đầu mà sống, sống với tình cảm trong trẻo, với lý tưởng cao đẹp của mình: “Hãy giữ vững tình cảm của người Cộng Sản, tinh thần sáng suốt như pha lê, cứng rắn như kim cương và chói lọi muôn nghìn hào quang của lòng tin tưởng...”
24-07-69 (Tr.172)
Sang ơi, ra miền Bắc có nói cho những người đang sống trên mảnh đất XHCN rằng miền Nam còn đau khổ, chỉ khi nào hết giặc Mỹ lúc đó mới thực sự có cuộc sống mà thôi!
5.2.8.- LÀ NƠI CHÔN GIẤU ƯU TƯ THẦM KÍN, KHÔNG VIẾT ĐƯỢC TRÊN GIẤY
25.05.68 (Tr.49)
Những ngày u uất của tâm hồn. Cái gì đè nặng trên trái tim ta? Đâu phải chỉ có một nỗi buồn của vết thương rỉ máu của con tim do đâu? Mà còn những gì nữa kia? Những sự thiếu công bằng vẫn còn trong xã hội vẫn diễn ra hằng ngày, vẫn có những con sâu, con mọt đang gặm dần danh dự Đảng, những con sâu mọt ấy nếu không bị diệt đi nó sẽ đục khoét dần lòng tin yêu của Đảng. Rất buồn rằng mình chưa được đứng trong hàng ngũ Đảng để đấu tranh cho đến cùng có lẽ vì thế mà những người đó cứ chần chừ không dám kết nạp mình mặc dù tất cả Đảng viên trong chi bộ, và rất nhiều người có trách nhiệm trong huyện, trong tỉnh này đều đôn đốc thúc giục việc giải quyết quyền lợi chính trị cho mình. Càng nghĩ càng buồn, muốn tâm sự với những người thân về những bực tức ấy nhưng với mình lại lặng thinh. nói ra liệu có ai hiểu hết cho mình hay không? Có ai phải sống những ngày nặng nề u uất như mình hay không? Sống giữa yêu thương mà không hề cảm thấy hạnh phúc bởi vì luôn có người ghen ghét trước lòng yêu thương mà nhiều người đã dành cho mình. Đã đành rằng đời bao giờ cũng có hai mặt tốt và xấu, không bao giờ có toàn mặt tốt, vậy mà sao Thùy cứ xót xa cay đắng mãi hở Thùy?
23-12-68 (Tr.107)
Chiều nay, Th. đã biết dẹp mọi nỗi bực dọc lại, tươi cười cầm quyển vở đứng lên giảng bài, tối nay Th. đã biết mỉm cười bình tĩnh trước những phản ứng của một kẻ bị đụng chạm đến quyền lợi cá nhân vậy thì cớ sao bây giờ bên ngọn đèn khuya với trang sổ nhỏ Th. lại rưng rưng nước mắt? Đừng khóc Thùy ơi! Hãy bình tĩnh vững vàng khi biết mình là kẽ đúng đắn. Có khóc thì hãy đợi khi cầm bàn tay của một người thân yêu nào đó mà kể mọi nỗi niềm. Còn trước mọi chông gai cay đắng của cuộc đời, trước mọi gian nguy thử thách mong Thùy hãy giữ vững nụ cười như bấy lâu nay Thùy vẫn giữ được. Dù đã che dấu đằng sau nó biết bao nhiêu nước mắt. Nước mắt hãy để dành riêng cho những người thân yêu thôi, nghe không hở Thùy?
Với trang giấy riêng tư mà cũng không dám kể hết uất ức của mình cho nhẹ lòng mà phải chôn chặt trong lòng chờ bộc lộ với người thân yêu thôi(?)
5.2.9 LÀ NƠI KHÔNG PHẢI VIẾT CHO RIÊNG MÌNH:
Đây chính là câu trả lời chính thức của Đặng Thùy Trâm
20-10-69 (Tr.191)
Rất lâu rồi không ghi nhật ký, cuộc sống lẽ nào lại để mất dần những suy tư của một con người biết suy nghĩ hay sao? Không mình không muốn như vậy nhưng công việc đè nặng bên mình và hàng ngày trong cái chết đau xót của anh em đồng chí làm minh quên đi những cái thuộc về bản thân mình nhưng quyển nhật ký này đâu phải chỉ là cuộc sống của riêng mình mà nó phải là những trang ghi lại những mảnh đời rực lửa chiến đấu và chồng chất đau thương của những con người gang thép trên mảnh đất miền Nam này.
Đây là hình thức chối bỏ minh thị thân phận DTT trong nhật ký. DTT đã khéo léo giấu giếm nỗi niềm thật sự của mình khi viết nhật ký? DTT đã biết nhật ký của mình thường bị kiểm duyệt nếu nói những suy nghĩ của mình chắc chắn cũng sẽ nhận lấy hậu quả như tác giả Trần Vàng Sao người cùng thời, “Hồi ức của một người tù không bị giam vào ngục” (Talawas)
Và nhật ký chỉ là bản tường trình công khai những câu chuyện chiến đấu chung chung chứ không phải riêng cá nhân Đặng Thùy Trâm. Với tầm giới hạn của nhật ký như vậy có đáng để Vương Trí Nhàn so sánh với nhật ký của Anne Frank hay không? Tr. 13 Anne Frank thú nhận: “Điều tuyệt diệu nhất là tôi có thể viết ra tất cả những cảm nghĩ bằng không sẽ chết ngạt mất”. “Những người nào không viết, không biết được những kỳ ảo của nó. Ngày xưa tôi luôn luôn đau đớn vì không biết vẽ, nhưng bậy giờ lòng tôi phơi phới vì ít ra tôi đã có thể viết.”
6.- KỶ LỤC CỦA NHẬT KÝ BẢN IN:
Hội Nhà Văn Việt Nam nên chuẩn bị báo công với Đảng và Nhà nước nhân kỳ Đại hội Đảng X sắp đến, về kỷ lục của nkdtt đạt được như sau
6.1.- TỐC ĐỘ XUẤT BẢN
Kỷ lục đầu tiên đáng ghi nhận đối với sách truyện Việt Nam đó là thời gian chưa đầy một tháng mà hội nhà văn, nhà Xuất bản đã chỉnh lý, ra mắt dộc giả tác phẩm nhật ký DTT. Hiên ngang đi bằng cửa chính, không bị kiểm duyệt, không lót tay hay làm thủ tục “Đầu tiên”.
Trong khi một bản thảo bình thường muốn được ra mắt độc giả phải đi qua cửa ải “Đầu tiên” phải mất hết từ sáu tháng đến một năm hay lâu hơn nữa là mãi mãi đợi chờ.
6.2.- SỐ LƯỢNG ẤN BẢN:
Theo lời ông Vũ Hoàng Giang, Phó giám đốc Cty Nhã Nam đợt in đầu tiên là 1.500 cho một tác phẩm thuộc loại truyền thống được bán hết trong một thị trường có 2 triệu đảng viên CS và trên 83 triệu dân. Chưa kể Việt kiều Hải ngoại là một con số đáng tự hào(?).Nếu so sánh cảnh người xếp hàng rất lâu mới được mua sách “Khi Đồng Minh tháo chạy” của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, với 300 cuốn sách không đủ cung ứng trong buổi ra mắt sách đầu tiên ở thành phố Westminster, chỉ có 300.000 Việt Kiều thì số lượng bản in đầu tiên nhật ký DTT không đáng kể gì.
Điều kỷ lục nói ở đây là theo báo Tuổi trẻ 7-10-2005 trong bài “Âm hưởng từ chuyến đi đánh động lương tri” cho biết tác phẩm này đã bán hơn hai trăm ngàn cuốn chỉ hơn trong vài tháng là một điều đáng mừng. Vì con số này đúng sự thật thì nó đã vượt qua mặt các tác phẩm truyền thống khác kể cả tác phẩm nói về Hồ Chí Minh xuất bản kiểu “Tình cho không biếu không” mà cũng không đạt được số lượng trong cùng thời gian đó.
Đối chiếu thực tế cuốn sách người viết mua được vào thời điểm 15-11-2005 là bản in trong số 20.000 cuốn của lần xuất bản đầu tiên. Vậy đâu là sự thật? Có hai cách trả lời
•Báo Tuổi Trẻ đã dối trá thổi phồng số lượng bản in hòng quảng cáo lường gạt độc giả?
•Nếu báo Tuổi trẻ nói sự thật, thì nhà xuất bản đã làm ăn gian dối không nói rõ số lượng bản in cũng như lần tái bản?. Ta thử làm bàn tính với một lần in 20.000 cuốn. nếu bán đúng theo số lượng của báo Tuổi Trẻ thì nhà xuất bản đã tái bản hơn 10 lần trong vòng 4 tháng Tại sao một bản in đã tái bản nhiều lần, lại không hiếu đính, vẫn vi phạm những lỗi sơ suất kỹ thuật cơ bản như đã trình bày ở phần đầu. Phải chăng NXB đã làm ăn cẩu thả, xem thường độc giả.
6.3.- CHI PHÍ QUẢNG CÁO:
Cũng là một kỷ lục lớn lao cho một cuốn sách tư nhân (nhà xuất bản Nhã Nam) lại được sự quảng cáo chùa của 600 tờ báo trong nước, tất cả đài truyền hình, phát thanh ( nếu tính mỗi tỉnh một đài, mỗi huyện một đài thì cả cũng lên đến vài trăm đài, cũng may hiện nay không còn đài phát thanh xã, phường. Nếu còn, thì có lẽ DTT sống lại sẽ giàu to nhờ chuyển nghề bác sĩ mắt thành bác sĩ tai chữa điếc cho nhân dân). Lại được chính quyền ngầm hổ trợ bằng cách chỉ thị cơ quan đoàn thể mua để học tập nhân điển hình anh hùng Đặng Thùy Trâm. Như vậy theo kinh tế thị trường mà nói chi phí quảng cáo số không, sách in ra bán hết nhà xuất bản được lợi nhuận tối đa, một cách làm ăn mới trên bước đường hội nhập WTO. Vái trời đừng có kẽ thối mồm nào vác chiếu ra tòa thưa về tội cạnh tranh không công bằng như vụ kiện cá ba sa thì thật là cảnh “ biết rồi! khổ lắm nói mãi!”.
6.4.- LẬP THÀNH TÍCH DÂNG ĐẢNG SỚM NHẤT:
Thật vậy đại hội Đảng X sắp tới còn vấn vương nhiều vấn đề nhân sự nóng bỏng, thế mà hội Nhà Văn đã nỗ lực lập thành tích sớm nhất hoàn thành vượt bực chỉ tiêu xuất bản ngoài dự kiến khi gấp rút cho xuất bản nhật ký DTT tạo chiến dịch rầm rộ nhằm ru ngủ tầng lớp thanh niên trong hào quang anh hùng mới, nhằm quên đi vấn đề thời sự hiện tại. Để cho Đảng CS và nhà nước rảnh tay đối phó với những tiếng nói dân chủ, nhân quyền. Thật là một công hai ba cái lợi, chẳng đáng ghi kỷ lục cho hội nhà văn hay sao?
6.5.- TẬP SÁCH SỚM ĐI VÀO HIỆN THỰC NHẤT:
Nhật ký xuất bản chưa đầy hai tháng, mà những kẽ bảo hoàng hơn vua đã tâng bốc, nâng bi đã đề nghị gây quỹ lập bệnh viện DTT, đề nghị lập tên đường DTT giữa lòng Hà Nội. Lại còn có hãng phim dự định xây dựng thành phim bộ nhiều tập.( Báo Tuổi trẻ 12-8-2005 bài đưa nkdtt lên màn ảnh). Một tác phẩm văn học đi vào hiện thực còn nhanh hơn những tác phẩm đoạt giải Nobel thế giới... Và đây cũng là lần đầu tiên một cuốn sách Việt Nam được đánh gia sớm nhất, ngang tầm cỡ sách văn học quốc tế: Nhật ký Anne Frank(?)
6.6.- SÁCH TRUNG THỰC NHẤT SO VỚI BẢN GỐC(?)
Đây là cuốn sách được đảm bảo công khai bởi người biên tập và chỉnh lý đúng theo bản gốc. Chỉ cần đọc lại phần đầu bạn đọc có thể tự đánh giá kỷ lục này.
6.7.- KỶ LỤC CUỐI CÙNG LÀ CUỐN SÁCH DỐI TRÁ VÀ PHẢN BỘI NHẤT:
Phần dối trá đã trình bày ở trên từ nội dung nhật ký đến câu chuyện hư cấu đưa nhật ký từ tay DTT đến chiến trường, lưu giữ và xuất hiện vào thời điểm nóng bỏng hiện nay. Phần phản bội xem tiếp phần sau.
7.- TIỂU SỬ ĐẶNG THÙY TRÂM:
Nhằm mục đích giúp cho thế hệ trẻ Việt Nam dễ đọc thuộc lòng, dễ nhớ, học tập phấn đấu theo gương anh hùng Đặng Thùy Trâm.
Nhằm tiếp tay với Đảng CS và Nhà Nước quảng bá sâu rộng cho toàn thế giới biết mẫu “Anh hùng XHCN Việt Nam“
Dựa vào nhật ký, lời xác nhận của gia đình, nhân chứng liên quan, báo chí của Đảng, Nhà nước. Cuộc đời hoạt động của Đặng Thùy Trâm có thể tạm đúc kết rõ ràng như sau:
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942 trong một gia đình trí thức tiểu tư sản. Cha, Đặng Ngọc Khuê, là một chuyên gia giải phẫu có tiếng theo kháng chiến cho đến khi về hưu vẫn không được vào Đảng vì lý lịch không rõ ràng. Mẹ, Dược sĩ Doãn Ngọc Trâm, sau 30 năm cảm tình đảng mới được kết nạp, năm nay 81 tuổi, có một em trai Đặng Hồng Quang em trai út (đã chết ở Nga) và ba chị em gái là Đặng Kim Trâm em gái út, Đặng Hiền Trâm, và Đặng Phương Châm.
Từ nhỏ đã là cháu ngoan bác Hồ. Ngày 01.04.1960 kết nạp Đoàn. Năm 1960-1961 học sinh lớp 10C trường Chu Văn An Hà Nội. Sau đó học đại học y khoa chuyên về mắt. Trong 5 năm đại học, hằng ngày DTT học chính trị, học chuyên môn, hoạt động đoàn viên còn theo cha vào phòng mổ học lóm mổ xẻ, theo mẹ và chị em ra vườn đố vui học cây lá thuốc Nam, tối về theo cha học vẽ “anatomice”.
Năm 1966 DTT ra trường sớm một năm, loại ưu(?).Nhà trường không có hồ sơ lưu trữ, không có tên trong danh sách đã tốt nghiệp. Gia đình không lưu giữ văn bằng tốt nghiệp, hay hình ảnh kỷ niệm ngày ra trường. Năm 1967 đã khai man lý lịch là bác sĩ mắt để được làm công tác chuyên môn ở một bệnh xá nhỏ tại Đức Phổ Quãng Ngải. Ngày 17-9-1969 kết nạp Đảng.
Đã lập thành tích xuất sắc:
VỀ CHUYÊN MÔN: là bác sĩ mắt nhưng làm công việc của chuyên gia giải phẫu đủ các bệnh ruột thừa, ung thư dạ dày, cắt cụt chân tay, vá thận, chửa bệnh bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn. Tổng kết hoạt động trong một năm chết 5 người. Được tuyên dương diễn hình toàn tỉnh ngày 1.11.1968. Hãnh diện với hai chữ “Bác Sỹ”. Người trí thức toàn diện XHCN.
VỀ CHIẾN ĐẤU: Chưa một ngày cầm súng trực tiếp chiến đấu, đi đâu đều có người bảo vệ như là vốn quý của Đảng. Từng bị bỏ rơi một mình khi lính Mỹ càn quét, và không biết xử trí ra sao. Hăng say thề trả thù rất sắt máu, chiến đấu đánh đuổi đế quốc Mỹ trên giấy. Đã từng bị đế quốc Mỹ đánh cướp hai quyển nhật ký. Những ngày cuối cùng DTT bị đơn vị bỏ lại một mình với năm thương binh giống như một vỏ chanh đã vắt hết nước. DTT một mình chống lại 120 lính Mỹ như là một chuyện cổ tích vậy.
Lúc 17g20 ngày 22-6-1970 bị một viên đạn duy nhất bắn vào trán chết. Đặc biệt trước khi chết còn hô to khẩu hiệu “Hồ Chí Minh Muôn năm, đã đảo đế quốc Mỹ”. Khi chết để lại một cây súng SKS và một túi vải trong đó có sổ tay. Đó là nhật ký không phải là chuyện riêng của DTT.
Cuốn nhật ký được thông dịch viên Nguyễn Trung Hiếu cho là nhật ký có lửa, và được luật sư tiến sĩ FRED WHIDERICST lưu giữ 35 năm.
•Nay trước tình hình chính trị phức tạp sau chuyến đi Mỹ, Canada và Nhật Bản của Thủ tướng Phan Văn Khải.
•Nay trước tình hình Việt Nam vuốt ve Mỹ để được dễ dàng gia nhập WTO.
•Nay thực hiện lời kêu gọi của Thủ Tướng sau 30 chiến tranh “Xếp lại quá khứ hướng về tương lai”. Kêu gọi Việt kiều hải ngoại trở về xây dựng đất nước.
•Nay trước tình hình nóng bỏng về nhân sự tiền Đại Hội Đảng X
•Nay định hướng mới về lý tưởng tương lai cho thế hệ trẻ Việt Nam.
Nhật Ký Đặng Thùy Trâm được cấp tốc chỉnh lý, xuất bản nhằm phục vụ các nhu cầu chính trị nói trên. Câu chuyện này được Thủ tướng đích thân viết thơ khen tặng, cựu bí thư Đảng Lê Khả Phiêu, Đại tướng Chu Huy Mân, Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ đến gia đình thăm hỏi, chúc tụng, nhiều nhân vật khác nữa. Sáu trăm tờ báo Đảng, toàn bộ hệ thống truyền thanh truyền hình quảng cáo xây dựng chiến dịch tôn vinh DTT thành mẫu anh hùng thời đại đối với thế hệ trẻ Việt Nam, ngang hàng với Paven trong “Thép đã tôi thế đấy!”. Qua các hoạt động họp báo quốc tế, đồng hành thắp sáng, triển lãm bán tranh, hội thảo, hội thoại. Lập nhiều kỷ lục sáng chói cho nền văn học Việt Nam.
Để đền ơn đáp nghĩa, Đảng và nhà nước hô hào toàn dân lập quỹ xây dựng bệnh viện DTT, lập con đường DTT giữa lòng thủ đô Hà Nội. Trong chiều hướng phát triển tương lai đưa nhật ký vào phim bộ nhiều tập để chiếu khắp thế giới.
Và còn gì nữa, phần sau để dành cho Đảng và Nhà nước viết tiếp.
Ôi! Nhục nhã thay! Ê chề thay! Một thần tượng của tuổi trẻ thanh niên XHCN Việt Nam!
Một cú lừa vĩ đại vô tiền khoáng hậu của một nữ du kích tiểu tư sản, đã chết mà vẫn còn lừa được Đảng, Nhà Nước và báo chí truyền thanh truyền hình Việt Nam. Khâm phục! khâm phục!
Người lính già này xin ngả nón chào. Nếu có gì còn thiếu sót xin linh hồn Đặng Thùy Trâm linh thiêng báo mộng để điền khuyết nhất là những điều ấm ức chưa nói rõ trong nhật ký, cũng như tên tuổi người dàn dựng chưa xuất hiện trong câu chuyện anh hùng vĩ đại này.
8.- LỜI KẾT: SỰ PHẢN BỘI.
Thưa luật sư tiến sĩ Frederic Whitehurst,
Người đã lưu giữ và đọc đi đọc lại nhật ký DTT rất nhiều lần suốt 35 năm nay. Người viết xin nghiêng mình ngưỡng mộ lòng kiên nhẫn của ông. Ông cũng là người biết rõ và tôn trọng ý nguyện sau cùng của người viết nhật ký là gởi về cho gia đình.
05-06-69.:... Đêm rất khuya rồi, không ai chợp mắt. Th. ngồi lặng thinh bên mình, em không nói một lời nào mãi đèn lúc chia tay em mới nói một câu ngắn: “Chị làm sao chứ em lo quá đi...” và mình thì không nói hết một câu: “Chị gửi ba lô cho em trong đó có quyển sổ...” muốn nói tiếp rằng: “nếu chị không về nữa thì em giữ quyển sổ đó và sau này gửi về cho gia đình” (Tr.157)
Thế mà ông lại có ý định phổ biến công khai nhật ký DTT cho toàn thế giới biết trước khi trao lại cho gia đình. Phải chăng dự kiến hành động này là một sự phản bội lại ý nguyện của người đã chết?. Cũng giống như Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phản bội lại di chúc Hồ Chí Minh, ướp xác, chôn nổi giữa Ba Đình Hà Nội. Hành động của Đảng CS là một sự phản bội lãnh tụ, lịch sử sẽ phê phán. Riêng ý định của ông có thể châm chước, khoan dung khi mà ông đã thành tâm viết thư cho gia đình:
Thứ Sáu, 6.5.2005
Em gái Kim,
Bác sĩ Đặng Thùy Trâm là một anh hùng đối với toàn thế giới. Đó không phải một lời khoa trương mà hoàn toàn là sự thật. Anh Robert và tôi đã nghĩ rằng nếu không tìm được gia đình chị thì chúng tôi sẽ xuất bản một cuốn sách về chị Thùy, qua đó, nếu còn sống thì gia đình em sẽ biết về chị. Ý tưởng của em về một cuốn sách cũng trùng với ý tưởng của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ phần đầu của cuốn sách sẽ viết về Thùy bằng tiếng Việt và sẽ bao gồm cả những trang nhật ký. Phần giữa cuốn sách sẽ là những bức ảnh gia đình và các chiến sĩ giải phóng ở Đức Phổ, những người đã được Thùy che chở chăm sóc, rồi những bức ảnh do người phóng viên người Hà Nội đã hy sinh mà tôi đã kể cho em nghe. Phần cuối cuốn sách sẽ là bản tiếng Anh dịch phần thứ nhất sang. Cuốn sách sẽ được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới trong một thời gian ngắn. Thùy đã cho chúng ta mọi hy vọng về tương lai. Chị nhận thấy cái đẹp ngay giữa cuộc chiến tranh, điều đó quá đặc biệt, mọi người phải cùng biết tới. Đó là ý tưởng của chúng tôi. Đó là ý tưởng của chúng tôi. Fred (Di sản DTT - Talawas)
Giờ này ông đã cầm trên tay bản in của NXB Hội Nhà Văn, do gia đình DTT đích thân ký tặng. Vì thế tôi rất vững tin rằng: Hơn ai hết ông đã đọc kỹ và biết rõ ràng bản in nhật ký đã cắt xén và chỉnh lý, sửa đổi và bóp méo nội dung. Trong đó có cả những bức thư của ông cũng bị sửa đổi. Thế mà cho đến nay ông vẫn im lặng! Và sẽ mãi mãi im lặng(?).Sự im lặng khó hiểu này có thể giải trình theo hai trạng thái đối nghịch như sau:
8.1.- IM LẶNG LÀ MỘT HÌNH THỨC ĐỐI KHÁNG KHÔNG THÀNH LỜI:
trình hoạt động của ông theo thư ông tự giới thiệu. Lại đi chọn một giải pháp thuận theo thời thế của một người hèn nhát trước bất công, áp lực, dối trá và phản bội. Đây là một việc rất khó xảy ra đối với ông(?)
8.2.- IM LẶNG LÀ BẰNG LÒNG :
Nếu ông chấp nhận sự im lặng theo ý nghĩa này, cũng là có nghĩa ông đã phản bội ý nguyện tác giả nhật ký chỉ viết cho gia đình đọc chứ không phải cho thế giới đọc (Như đã trình bày trên). Ngoài ra ông đã phản bội lại ước mong của ông, cuốn nhật ký được xuất bản phải in toàn bộ các trang nhật ký bản gốc, thế mà giờ đây bản in trên tay ông chỉ là sản phẩm què quặt, méo mó so với bản gốc. Và ông cũng phản bội lại chính ông khi mà thư của ông bị chỉnh lý sửa đổi mà ông vẫn không có lời than phiền hay đính chính.
Theo luật học, sự im lặng trong trường hợp này phải chăng là một bằng chứng của sự đồng lõa? Là bằng chứng của đồng bọn? Thưa ông Frederic Whitehurst có phải thế không nhỉ?
Riêng bà Đặng Kim Trâm người đại diện cho gia đình đã đọc nhật ký DTT không những bằng lý trí của người biên tập mà còn bằng con tim của người em út đối với người chị đã tức tưởi nằm xuống. Hơn ai hết bà phải hiểu cuốn nhật ký đó không phản ảnh trung thực con người của Đặng Thùy Trâm. Thế mà bà vẫn làm công việc đóng góp phần ca tụng giả dối con người DTT theo nhật ký đã viết.
Chắc bà cũng đã hiểu rõ bề sâu của những trang nhật ký cuối cùng DTT nằm xuống trong hoàn cảnh bỏ rơi không lối thoát. Lời DTT ngày 20-6-70 ... Những câu hỏi cứ cứ xoáy trong đầu óc mình và những người ở lại. Vì sao? Lý do vì sao mà không trở lại. Có khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cách này sao?”. (Tr.255)
Đây là lời trăng trối của DTT. Là lời trăng trối chưa bao giờ nói hết. Với con tim chảy cùng dòng máu của bà, người viết tin rằng bà đã hiểu. Cuốn nhật ký không phản ảnh đúng cuộc đời thật của Đặng Thùy Trâm. Thế nhưng bà vẫn biên tập, đành đoạn cắt xén chỉnh lý nội dung bản gốc, sai lạc hết ý nghĩa đích thật nhật ký mà DTT đã viết. Như vậy bà đã lợi dụng nhật ký của chị bà như là một cái phao nổi trong xã hội. Hành động này chính là một tội lỗi khó tha thứ được đối với người đã chết. Nói một cách nào đó cũng là sự phản bội. Phản bội chính người chị ruột của bà.
Và bà vẫn xác định trên đài BBC bà đã biên tập lại hoàn toàn không bỏ sót câu nào(?)Trong khi bản in và bản gốc đã nằm trong tay bạn đọc như là một bằng chứng dối gạt của bà. Bà đã phản bội lòng tin yêu của độc giả đến với DTT như là một biểu tượng thời đại theo cách nói của Đảng và nhà Nước. Lời của bà “dám chịu trách nhiệm và không sợ thách thức của dư luận” có còn ý nghĩa nào không thưa bà Đặng Kim Trâm?
Bài viết trên đã dài, thế nhưng vẫn chưa nói hết những điều còn thắc mắc trong lòng người viết như là động cơ trong sáng nào đưa nhật ký DTT đến với độc giả? Đàng sau sự dàn dựng câu chuyên anh hùng là cái gì? Đảng và Nhà Nước CS đề cao Nhật ký DTT trong tình hình xếp lại quá khứ hương về tương lai là nhằm vào mục đích gì? còn nhiều nữa... người viết không nhớ hết xin dành cho độc giả viết tiếp vậy.
THIÊN ĐỨC
Dựa vào sự khác biệt của lối bỏ dấu, sự khác biệt của chữ G, chữ N, phong cách viết, người viết tìm thấy có sáu nét chữ khác biệt trong nhật ký như sau:
Nét bút của người thứ hai
5.1.2. Người thứ hai: có nét chữ nắn nót, chữ G thường đá cao lên đầu, có chữ ký cũng khác biệt chữ ký của DTT. Mặc dù đương sự cố bắt chước theo nhưng vẫn thấy rõ nét khác biệt, sau đây là toàn bộ nét chữ và vị trí viết của người thứ hai.
5.1.3. Người thứ ba: Xem lại BT7 có chữ XHCN được viết ở dưới địa chỉ trang cuối của quyển 1. Đặc biệt nét nút này viết cẩu thả, chữ g đi thẳng xuống không hề đá lên như của DTT và người thứ hai.
5.1.4 Người thứ tư: là người vẽ hình bìa trang đầu quyển 2. Chữ T hoa (Xuân Canh Tuất) của người này hoàn toàn khác các người trên. Nét chữ còn vụng về, không vững chải).
5.1.5 Người thứ năm: Nét bút của lá thư Khiêm dán vào Nhật Ký
5.1.6 Người thứ sáu: Nét bút lá thư của Thuận dán vào Nhật ký.
5.1.7.- DTT: Tác giả đã viết nội dung chính của nhật ký và câu đầu tiên của trang thứ nhất quyển 1
BT.1 Nét bút DTT ở trang 1 quyển 1
BT2 Nét bút DTT ở những trang trong nhật ký
BT.3: trang 1 quyển 2: Cùng nội dung với (BT1) nhưng nét bút và chữ ký hoàn toàn khác.
BT.4: bên trái trang 1 quyển 1
BT.5: trang 2 quyển 1
BT.6: trang 3 quyển 1
Loại ra nét chữ của DTT và hai lá thư được dán vào, còn lại 3 nét chữ của ai?
NGƯỜI THỨ HAI là ai? Đây là người đã 7 lần viết vào nhật ký DTT
Người viết dùng phương pháp loại suy và đi ngược thời gian đi tìm dấu vết của người thứ hai như sau:
•Chữ ký ở trang ngày 1.2-.70 (BT.8) chỉ có thể ký sau ngày này khi trang nhật ký đã được viết.
•Những dòng địa chỉ ở trang cuối quyển 1 (BT.7) phải được ghi sau ngày kết thúc nhật ký 04-12-69 và trước ngày 15-01-70 (là ngày bị mất nhật ký) (Điểm suy luận này sẽ được xét lại ở phần sau)
•Dòng chữ “Đời phải trải qua giông tố nhưng chớ cúi đầu trước giống tố ở trang 3 quyển 1 (BT.6) giống câu DTT ghi nhật ký ngày 30-6-1968. Vậy ai đã sao chép của ai? Ở đây có thể phân tích hai trường hợp:
-Trường hợp 1: DTT sao chép của người thứ hai, tức là nét chữ ở trang 3 quyển 1 (BT.6) phải được viết trước ngày 30-6-68 là ngày ghi nhật ký.
-Trường hợp người thứ hai sao chép của DTT, tức là nét chữ này ghi sau ngày 30-6-68 và trước ngày mất nhật ký 15.01.70
•Dòng chữ “Những ngày rực lửa, vui buồn tràn ngập giữa tim ta” của DTT (BT.1) trang 1 quyển 1 được người thứ hai chép sai lại ở trang 1 quyển 2 (BT.3)
•Người thứ hai đã 4 lần viết vào nhật ký, với nội dung vay mượn của Hoàng văn Thụ (BT.9), N.A. OSTROTSKY (BT.5), và DTT (BT.3 và BT.6). Chứng tỏ người thứ hai không có bản lĩnh sáng tạo hay nói cách khác trình độ rất kém xa DTT. Chỉ có khoa trương bề ngoài qua nắn nót chữ viết thôi.
•Tên DTT (BT.4) có thể viết cùng một ngày viết địa chỉ (BT.7).
•Quyển 2 nhật ký luôn luôn ở bên mình DTT từ ngày viết cho đến khi chết thế mà đã có nét bút người thứ hai. Vậy người thứ hai viết lúc nào. Có hai giả thiết:
-Được thêm vào sau khi DTT đã chết thì người thứ hai là lính Mỹ hay Nguyễn Trung Hiếu. Nhưng hai người này làm sao biết được tên cha, mẹ và địa chỉ của DTT để viết vào trang cuối quyển 1 (BT.7). Vì nét chữ địa chỉ và nét chữ trang đầu quyển 2 đều của người thứ 2. Vậy giả thiết này không vững.
-Người thứ hai đã viết vào nhật ký lúc DTT còn sống, và biết rõ lý lịch DTT không ai khác hơn là người trong đơn vị, có thẩm quyền đọc nhật ký, kiểm tra mọi hành vi của DTT. Đây có phải là một sự xúc phạm nhân phẩm xen vào đời tư người khác không?
Ngoài ra còn một nghi vấn nữa, tại sao DTT khi viết nhật ký lại chừa 7 trang giấy trắng (tức là 4 trang đầu của bản copy) ? là một điều bất thường trong tình hình khan hiếm giấy mực của thời chiến tranh. Trong khi quyển thứ 2 chỉ chừa lại 2 trang đầu như thường lệ.
NGƯỜI THỨ BA và THỨ TƯ chỉ xuất hiện một lần trong nhật ký, không đóng vai trò quyết định, cũng không loại trừ hai người này là một. Họ là ai mà có thể ghi vào nhật ký?
Như vậy chỉ có người thứ hai đã nhiều lần đọc nhật ký DTT, nhiều lần ghi chép vào nhật ký, thậm chí lại còn biết rõ tên cha mẹ, địa chỉ của từng người để viết vào nhật ký. Trong thời gian này DTT không có người yêu, cũng không có người thân gia đình. Thì chỉ có thể kết luận người thứ hai là người có thẩm quyền nắm sinh mạng chính trị của DTT. Đó là bí thư chi bộ hay chính trị viên đơn vị. Và người này đã cho lệnh DTT viết nhật ký với điều kiện chừa lại 7 trang đầu để đơn vị kiểm duyệt, và mỗi lần ghi vào nhật ký là đánh dấu một lần kiểm tra?
Tổng hợp nội dung hai phần 4 và 5.1 người viết có thể tạm đúc kết câu chuyện dàn dựng như sau: Vào thời kỳ sau 1968 phong trào phản chiến Mỹ lên cao, các đơn vị Việt Cọng được mật lệnh khuyến khích viết nhật ký (theo xác nhận của Thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu với báo Tuổi Trẻ là có 40% lính CS viết Nhật ký), dưới sự giám sát theo dõi của Đảng. Sự kiện viết nhật ký này có ba tác dụng : 1- Kiểm soát tư tưởng đảng viên . 2- Nếu đảng viên chết thì đem nhật ký này về động viên gia đình . 3- Nếu nhật ký có giá trị tuyên truyền phản chiến thì được Mỹ ăn cướp(?)sau khi đã cắt xén hoặc thêm bớt theo nhu cầu cuộc chiến.
Nhật ký DTT đã từng bị kiểm duyệt và được đánh giá có thể sử dụng theo tác dụng thứ ba là làm tài liệu tuyên truyền. Do vậy đơn vị (Đảng) đã đánh cắp nhật ký DTT, gởi thượng cấp phê duyệt, nghiên cứu hơn một năm sau mới được chấp thuận cho làm tài liệu tuyên truyền. Sau đó người đạo diễn chính là người thứ hai viết tên địa chỉ nơi làm việc cha mẹ DTT vào nhật ký trước khi bố trí cho Hiếu nhặt được cuốn nhật ký này? Trước đó Hiếu đã từng bị lợi dụng Hiếu được rỉ tai là nhật ký có lửa, rồi Hiếu báo lại cho Fred biết về nhật ký của DTT, chứ thật sự Hiếu chưa hề đọc trước nhật ký DTT.
Ở đây còn có một nghi vấn nữa tại sao lại không ghi địa chỉ cư trú của gia đình DTT, mà lại ghi rỏ tên cha, mẹ và hai địa chỉ làm việc của họ? Theo lời khai của gia đình Cha DTT tiểu tư sản lý lịch không rõ ràng, đến chết chưa được vào đảng dù là chuyên viên giải phẫu xuất sắc. Mẹ là dược sĩ, đối tượng đảng sau 30 năm mới được kết nạp. Vào thời điểm DTT vào miền Nam cha mẹ của DTT ở trong diện lý lịch không rõ ràng, nằm trong thành phần nghi ngờ, (thành phần có vấn đề). Vì thế sự tiết lộ tên cha mẹ địa chỉ làm việc trong nhật ký đã được tính toán kỹ như là một cái bẩy chờ bắt cá cả ổ, nếu cha mẹ DTT có sơ hở gì sau khi nhật ký DTT rơi vào tay địch mà thôi.
5.2.- NHẬT KÝ LÀ GÌ?:
Với tự điển trên tay bạn đọc có thể tìm thấy câu trả lời dễ dàng, thế nhưng đối với DTT nhật ký lại mang ý nghĩa khác. Và sau đây có thể là một trong những câu trả lời đó:
5.2.1.- LÀ NHỮNG CHUYỆN HƯ CẤU
Theo Nguyễn Bình “Đọc Nhật ký DTT” - Đàn Chim Việt:
Trước hết về cái chết của Khiêm. Trong nhật ký đề ngày 14.8.68 DTT viết “ Khiêm đã chết rồi! Trong một buổi càn giặc Mỹ đã tìm thấy công sự của Khiêm. Chúng mở nắp công sự, Khiêm vọt lên dùng quả lựu đạn duy nhất trong tay quăng vào lũ giặc. Bọn quỷ khát máu sợ hãi nằm rạp xuống. Khiêm chạy được một đoạn nhưng quả lựu đạn chó chết đã câm, bọn giặc chồm dậy đuổi theo Khiêm và đến băm nát người Khiêm. Khiêm chết rồi, đôi mắt đen dịu hiền giờ đây mở trừng căm giận. Mái tóc đen xanh của Khiêm giờ đây đẫm máu và bụi cát.. Chiếc áo Ninfan màu xám giờ đây rách nát và loang lổ máu“Đọc đoạn trên chúng ta có cảm tưởng là DTT đang trốn ở đâu đó, gần nơi Khiêm bị giết. DTT đã mô tả rất rõ ràng từng chi tiết.
Nhưng đọc tiếp thì mình mới thấy “nghe tin..” tức là do người khác kể lại! Vậy ai đã khiếp nhược nằm trốn để chứng kiến cảnh “đồng chí” của mình bị giết, hay đó là óc tưởng tượng của DTT. Vì chỉ có DTT thì mới có thể nhìn và nhận ra chiếc áo “ Ninfan màu xám” đầy ắp kỷ niệm “Chiếc áo ấy Khiêm đã mặc hôm đầu tiên gặp mình, cũng chiếc áo ấy Khiêm đã cùng Th. len lỏi trên con đường nhỏ hẹp đầy gai lưỡi hùm&.. Và cũng chiếc áo ấy một đêm trăng đẹp từ Phổ Khánh trở về. Gió lạnh từ biển thổi vào làm Kh. Khẽ run.Th. đã đưa chiếc áo của Quế cho Khiêm mặc, trên nền áo xám giản dị nổi bật màu đỏ đậm đà như lời nói Khiêm hôm ấy: “ Thùy ơi! Trên đời này trừ ba má, Khiêm không thương ai hơn Thùy, kể cả người yêu Khiêm”.
Chúng ta phải đợi đến 13 ngày sau (17.9.68) khi “ Nghe chị Cấp kể lại ngày hy sinh càng thương Khiêm đến đứt ruột”. Điều này chứng tỏ nhật ký ngày 14.8.68 là không có thật, đó là sản phẩm của óc tưởng tượng của DTT ( hay của ai đó). Ngoài ra chúng ta hãy nghe chị Cấp kể tiếp “ Cha Khiêm hai tay bị trói chặt, vai ròng ròng máu vì vết thương. Khi nhìn thấy xác Khiêm dòng nước mắt ông tuôn trào, trong đôi mắt rực lửa căm thù và đau xót ấy người ta đã thấy tình thương vĩ đại của người cha”. Chúng ta thấy ngay cảnh bọn lính Mỹ đã bắt được cha của Khiêm, và dẫn đến để nhìn xác con !?.
Người kể lại cảnh này phải là một cán binh CS, bị bắt cùng với cha của Khiêm, nên mới có thể nhìn rõ “ đôi mắt rực lửa căm thù”. Như vậy người đó được thả ra lúc nào để kể lại cho chị Cấp nghe?
Câu chuyện thứ 2:
19-02-69 (Tr.126)
:... Một buổi sáng trên đường hành quân cũng rừng cây cao im lặng cũng ánh nắng hồng chói chan trên đỉnh núi... một buổi sáng dưới đồng bằng nắng xuyên qua rặng tre len lỏi chiếu lên chiếc bàn sau khung cửa...
DTT đã đi hành quân diệt Mỹ với tâm hồn của nhà văn? Đọc đoạn sau là lời tự thú của DTT
27-7-69 (Tr.173)
Đêm nay một đêm đầu tiên mình phải sống bơ vơ không có ai đảm bảo cho mình ngoài những người dân đối với mình chỉ có một tình thương bình thường gần 3 năm nay đi đâu mình cũng vô tư mặc dù giữa tình hình rất căng thẳng mình vẫn yên tâm vì đã có người bảo vệ mình chu đáo, dựa vào họ mình không phải lo lắng gì cả. Đêm nay chỉ một mình lần đầu tiên kể từ ngày bước chân vào Nam mình phải suy nghĩ, địch càn xuống mình sẽ chạy đi đâu, nếu chúng tập kích vào đêm nay thì phải xử trí thế nào? Cần liên hệ với ai để có công sự ở.
DTT đã tự tố cáo vẫn còn vô tư trước tình hình căng thẳng thì làm sao có thể xảy ra cảnh DTT đi hành quân ở đoạn trên. Như vậy chuyện đi hành quân ở trên là chuyện hư cấu để viết văn chơi mà thôi chứ không có thật.
5.2.2.- LÀ LỜI NÓI DỐI HOANG TƯỞNG:
26.07.69 (Tr.172)
Đoàn du kích đi cõng đàn về qua Khe Sanh bị phục kích tại núi cửa, mấy thằng Mỹ đi phục mà nằm ngủ như chết, mấy đồng chí của mình đi sát đến nơi mới nhận ra những thằng Mỹ nằm ngổn ngang trên những tảng đá. Vì vội vàng, một đồng chí lọt chân rơi xuống vực sâu may mà vướng một mỏm đá nên mắc lại, bọn Mỹ liệng mìn ra nhưng không gây thiệt hại gì.
Cả toán lính Mỹ phục kích mà lại nằm ngủ ngổn ngang trên những tảng đá? Tại sao đoàn du kích (đông người?) không giết lính Mỹ lúc ngủ để lấy vũ khí lập thành tích cá nhân cơ hội ngàn năm một thủa, mà để Mỹ liệng mìn chạy trối chết như vậy? Một đồng chí rơi xuống vực thẳm kẹt vào mỏm đá bị mìn không chết? mà còn leo lên được thoát khỏi sự phục kích của Mỹ? Phải chăng cả bọn Mỹ còn nhắm mắt ngũ sau khi liệng mìn?
5.2.3.- LÀ NƠI BÁO CÁO THÀNH TÍCH TUYÊN TRUYỀN
19.9.68 (Tr.83)
Em Hằng, 14 tuổi trong 6 tháng đần năm giết được 6 tên Mỹ, đánh lật được hai xe bằng vũ khí tự tạo, lấy được bảy súng giặc trong có hai cối cá nhân và các loại khác. Em Phổ Châu lấy năm súng có hai cối cá nhân, một đài RC. Các em đã anh hùng từ trong trứng nước. Đáng tự hào thay dân tộc của ta!
30.08.1969 (Tr.186)
Trong một tuần chiến đấu liên tục ta diệt 14 tăng, 1 HU1A, 15 xe nhà binh, diệt 150 tên Mỹ, một du kích hy sinh, 2 đồng chí bị thương.
Chỉ có lính Mỹ chết, còn lính VNCH không chết trong các cuộc hành quân hỗn hợp(?).
5.2.4.- LÀ SỔ TAY LÀM VIỆC HỘI HỌP HẰNG NGÀY:
29.11.68 (Tr.100)
Chỉnh huấn Đảng:
Ưu:
•Tập thể kiên định, không sợ ác liệt, không ngại hy sinh hoàn thành nhiệm vụ
•Ý thức tổ chức cao
•Hòa nhã được quần chúng yêu mến
•Lo lắng cảm thông với thương binh tốt
•Công tác huấn luyện tốt
Khuyết:
•Lãnh đạo không quán xuyến hết
•Còn thiếu linh hoạt trong công tác có lúc chưa tranh thủ hết sự lãnh đạo tập thể
•Tác phong còn tiểu tư sản
•Công tác bảo mật phòng gian còn yếu
•Kiểm tra đôn đốc thực hiện còn yếu.
16.03.69 (Tr.134)
Chỉnh huấn Đảng, học tập 3 xây, 3 chống. Ý kiến đóng góp của chi bộ
Ưu:
•Lãnh đạo có nhiều tiến bộ, quán triệt nhiệm vụ, quán xuyến các mặt công việc.
•Làm trọn nhiệm vụ nặng nề trên giao phó
•Lập trường tư tưởng kiên định, ý thức tổ chức cao
•Kế hoạch sát sao, có kiểm tra đôn đốc
Khuyết:
•Còn có lúc có nơi chưa sâu sát công việc
•Chưa tận dụng hết khả năng nghiên cứu rút kinh nghiệm kịp thời trong công tác điều trị
•Chăm lo cải thiện đời sống cho cán bộ còn yếu
5.2.5.- LÀ NƠI THỀ TRẢ THÙ DIỆT MỸ MÀ DTT KHÔNG CẦN ĐI HÀNH QUÂN.
10-01-69 (Tr.117)
:... Biết nói thế nào đây... một ngày còn bóng giặc Mỹ, một ngày còn đau thương tang tóc. Ôi! Mối thù này bao giờ mới trả hết đây.
28-4-69 (Tr.148)
Không có con đường nào khác hơn là phải đánh cho không còn một tên đế quốc Mỹ nào trên đất nước chúng ta lúc đó mới có thể có hạnh phúc
05-11-69 (Bản in cắt bỏ)
[BG: Ôi! Giặc Mỹ chồng bao tội ác của bay đã chất đầy như núi. Còn sống ngày nào tao thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để trả được mối thù vạn kiếp đó.]
05-05-70 (Bản in cắt sửa đổi)
[BG: Cuộc chiến tranh lan rộng trên dải đất Đông Dương, thằng chó đểu Nickson đã liều lĩnh điên cuồng mở rộng thêm cuộc chiến, chúng ta sẽ phải đương đầu với một khó khăn ghê gớm hơn nữa đấy. Nhưng tao thề cùng những đồng chí của tao rồi, dù có chết cũng quyết định đánh cho đến cùng để đánh giập đầu con rắn độc hiếu chiến.
Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột, tại sao cũng là con người mà lại có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng loại để làm nước tưới cho gốc cây vàng của nó, như vậy, bao nhiêu cũng không đủ túi tham, bao nhiêu cũng không thỏa mãn cái cuồng vọng của bọn quỷ khát máu.]
Đối với lời thề rất sắt máu nhưng không trực tiếp cầm súng giết địch.
5.2.6.- LÀ NƠI CÓ THỂ LÀM TRÁI LỆNH ĐẢNG.
Hồ Chí Minh đã ra lệnh chiến đấu “Đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào” thế mà DTT chỉ có đánh Mỹ qua nội dung 5.2.5 chứ không căm thù đánh Ngụy. Trong báo cáo thành tích cũng không có xác ngụy. Như vậy DTT đã không chấp hành nghiêm túc lệnh Đảng. DTT ngang nhiên không chấp hành đúng mệnh lệnh của Đảng mà vẫn được tuyên dương điển hình toàn tỉnh.
5.2.7.- LÀ NƠI CA TỤNG LÝ TƯỞNG CS VÀ XHCN TỐT ĐẸP. Để cho ai đọc?
08-10-68 (Tr.86)
:... Người Cọng Sản rất yêu cuộc sống nhưng khi cần có thể nhẹ nhàng mà chết được.
01-9-68 (Tr.78)
Biết sống sao đây, tốt hơn hết là Thùy hãy ngẩng cao đầu mà sống, sống với tình cảm trong trẻo, với lý tưởng cao đẹp của mình: “Hãy giữ vững tình cảm của người Cộng Sản, tinh thần sáng suốt như pha lê, cứng rắn như kim cương và chói lọi muôn nghìn hào quang của lòng tin tưởng...”
24-07-69 (Tr.172)
Sang ơi, ra miền Bắc có nói cho những người đang sống trên mảnh đất XHCN rằng miền Nam còn đau khổ, chỉ khi nào hết giặc Mỹ lúc đó mới thực sự có cuộc sống mà thôi!
5.2.8.- LÀ NƠI CHÔN GIẤU ƯU TƯ THẦM KÍN, KHÔNG VIẾT ĐƯỢC TRÊN GIẤY
25.05.68 (Tr.49)
Những ngày u uất của tâm hồn. Cái gì đè nặng trên trái tim ta? Đâu phải chỉ có một nỗi buồn của vết thương rỉ máu của con tim do đâu? Mà còn những gì nữa kia? Những sự thiếu công bằng vẫn còn trong xã hội vẫn diễn ra hằng ngày, vẫn có những con sâu, con mọt đang gặm dần danh dự Đảng, những con sâu mọt ấy nếu không bị diệt đi nó sẽ đục khoét dần lòng tin yêu của Đảng. Rất buồn rằng mình chưa được đứng trong hàng ngũ Đảng để đấu tranh cho đến cùng có lẽ vì thế mà những người đó cứ chần chừ không dám kết nạp mình mặc dù tất cả Đảng viên trong chi bộ, và rất nhiều người có trách nhiệm trong huyện, trong tỉnh này đều đôn đốc thúc giục việc giải quyết quyền lợi chính trị cho mình. Càng nghĩ càng buồn, muốn tâm sự với những người thân về những bực tức ấy nhưng với mình lại lặng thinh. nói ra liệu có ai hiểu hết cho mình hay không? Có ai phải sống những ngày nặng nề u uất như mình hay không? Sống giữa yêu thương mà không hề cảm thấy hạnh phúc bởi vì luôn có người ghen ghét trước lòng yêu thương mà nhiều người đã dành cho mình. Đã đành rằng đời bao giờ cũng có hai mặt tốt và xấu, không bao giờ có toàn mặt tốt, vậy mà sao Thùy cứ xót xa cay đắng mãi hở Thùy?
23-12-68 (Tr.107)
Chiều nay, Th. đã biết dẹp mọi nỗi bực dọc lại, tươi cười cầm quyển vở đứng lên giảng bài, tối nay Th. đã biết mỉm cười bình tĩnh trước những phản ứng của một kẻ bị đụng chạm đến quyền lợi cá nhân vậy thì cớ sao bây giờ bên ngọn đèn khuya với trang sổ nhỏ Th. lại rưng rưng nước mắt? Đừng khóc Thùy ơi! Hãy bình tĩnh vững vàng khi biết mình là kẽ đúng đắn. Có khóc thì hãy đợi khi cầm bàn tay của một người thân yêu nào đó mà kể mọi nỗi niềm. Còn trước mọi chông gai cay đắng của cuộc đời, trước mọi gian nguy thử thách mong Thùy hãy giữ vững nụ cười như bấy lâu nay Thùy vẫn giữ được. Dù đã che dấu đằng sau nó biết bao nhiêu nước mắt. Nước mắt hãy để dành riêng cho những người thân yêu thôi, nghe không hở Thùy?
Với trang giấy riêng tư mà cũng không dám kể hết uất ức của mình cho nhẹ lòng mà phải chôn chặt trong lòng chờ bộc lộ với người thân yêu thôi(?)
5.2.9 LÀ NƠI KHÔNG PHẢI VIẾT CHO RIÊNG MÌNH:
Đây chính là câu trả lời chính thức của Đặng Thùy Trâm
20-10-69 (Tr.191)
Rất lâu rồi không ghi nhật ký, cuộc sống lẽ nào lại để mất dần những suy tư của một con người biết suy nghĩ hay sao? Không mình không muốn như vậy nhưng công việc đè nặng bên mình và hàng ngày trong cái chết đau xót của anh em đồng chí làm minh quên đi những cái thuộc về bản thân mình nhưng quyển nhật ký này đâu phải chỉ là cuộc sống của riêng mình mà nó phải là những trang ghi lại những mảnh đời rực lửa chiến đấu và chồng chất đau thương của những con người gang thép trên mảnh đất miền Nam này.
Đây là hình thức chối bỏ minh thị thân phận DTT trong nhật ký. DTT đã khéo léo giấu giếm nỗi niềm thật sự của mình khi viết nhật ký? DTT đã biết nhật ký của mình thường bị kiểm duyệt nếu nói những suy nghĩ của mình chắc chắn cũng sẽ nhận lấy hậu quả như tác giả Trần Vàng Sao người cùng thời, “Hồi ức của một người tù không bị giam vào ngục” (Talawas)
Và nhật ký chỉ là bản tường trình công khai những câu chuyện chiến đấu chung chung chứ không phải riêng cá nhân Đặng Thùy Trâm. Với tầm giới hạn của nhật ký như vậy có đáng để Vương Trí Nhàn so sánh với nhật ký của Anne Frank hay không? Tr. 13 Anne Frank thú nhận: “Điều tuyệt diệu nhất là tôi có thể viết ra tất cả những cảm nghĩ bằng không sẽ chết ngạt mất”. “Những người nào không viết, không biết được những kỳ ảo của nó. Ngày xưa tôi luôn luôn đau đớn vì không biết vẽ, nhưng bậy giờ lòng tôi phơi phới vì ít ra tôi đã có thể viết.”
6.- KỶ LỤC CỦA NHẬT KÝ BẢN IN:
Hội Nhà Văn Việt Nam nên chuẩn bị báo công với Đảng và Nhà nước nhân kỳ Đại hội Đảng X sắp đến, về kỷ lục của nkdtt đạt được như sau
6.1.- TỐC ĐỘ XUẤT BẢN
Kỷ lục đầu tiên đáng ghi nhận đối với sách truyện Việt Nam đó là thời gian chưa đầy một tháng mà hội nhà văn, nhà Xuất bản đã chỉnh lý, ra mắt dộc giả tác phẩm nhật ký DTT. Hiên ngang đi bằng cửa chính, không bị kiểm duyệt, không lót tay hay làm thủ tục “Đầu tiên”.
Trong khi một bản thảo bình thường muốn được ra mắt độc giả phải đi qua cửa ải “Đầu tiên” phải mất hết từ sáu tháng đến một năm hay lâu hơn nữa là mãi mãi đợi chờ.
6.2.- SỐ LƯỢNG ẤN BẢN:
Theo lời ông Vũ Hoàng Giang, Phó giám đốc Cty Nhã Nam đợt in đầu tiên là 1.500 cho một tác phẩm thuộc loại truyền thống được bán hết trong một thị trường có 2 triệu đảng viên CS và trên 83 triệu dân. Chưa kể Việt kiều Hải ngoại là một con số đáng tự hào(?).Nếu so sánh cảnh người xếp hàng rất lâu mới được mua sách “Khi Đồng Minh tháo chạy” của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, với 300 cuốn sách không đủ cung ứng trong buổi ra mắt sách đầu tiên ở thành phố Westminster, chỉ có 300.000 Việt Kiều thì số lượng bản in đầu tiên nhật ký DTT không đáng kể gì.
Điều kỷ lục nói ở đây là theo báo Tuổi trẻ 7-10-2005 trong bài “Âm hưởng từ chuyến đi đánh động lương tri” cho biết tác phẩm này đã bán hơn hai trăm ngàn cuốn chỉ hơn trong vài tháng là một điều đáng mừng. Vì con số này đúng sự thật thì nó đã vượt qua mặt các tác phẩm truyền thống khác kể cả tác phẩm nói về Hồ Chí Minh xuất bản kiểu “Tình cho không biếu không” mà cũng không đạt được số lượng trong cùng thời gian đó.
Đối chiếu thực tế cuốn sách người viết mua được vào thời điểm 15-11-2005 là bản in trong số 20.000 cuốn của lần xuất bản đầu tiên. Vậy đâu là sự thật? Có hai cách trả lời
•Báo Tuổi Trẻ đã dối trá thổi phồng số lượng bản in hòng quảng cáo lường gạt độc giả?
•Nếu báo Tuổi trẻ nói sự thật, thì nhà xuất bản đã làm ăn gian dối không nói rõ số lượng bản in cũng như lần tái bản?. Ta thử làm bàn tính với một lần in 20.000 cuốn. nếu bán đúng theo số lượng của báo Tuổi Trẻ thì nhà xuất bản đã tái bản hơn 10 lần trong vòng 4 tháng Tại sao một bản in đã tái bản nhiều lần, lại không hiếu đính, vẫn vi phạm những lỗi sơ suất kỹ thuật cơ bản như đã trình bày ở phần đầu. Phải chăng NXB đã làm ăn cẩu thả, xem thường độc giả.
6.3.- CHI PHÍ QUẢNG CÁO:
Cũng là một kỷ lục lớn lao cho một cuốn sách tư nhân (nhà xuất bản Nhã Nam) lại được sự quảng cáo chùa của 600 tờ báo trong nước, tất cả đài truyền hình, phát thanh ( nếu tính mỗi tỉnh một đài, mỗi huyện một đài thì cả cũng lên đến vài trăm đài, cũng may hiện nay không còn đài phát thanh xã, phường. Nếu còn, thì có lẽ DTT sống lại sẽ giàu to nhờ chuyển nghề bác sĩ mắt thành bác sĩ tai chữa điếc cho nhân dân). Lại được chính quyền ngầm hổ trợ bằng cách chỉ thị cơ quan đoàn thể mua để học tập nhân điển hình anh hùng Đặng Thùy Trâm. Như vậy theo kinh tế thị trường mà nói chi phí quảng cáo số không, sách in ra bán hết nhà xuất bản được lợi nhuận tối đa, một cách làm ăn mới trên bước đường hội nhập WTO. Vái trời đừng có kẽ thối mồm nào vác chiếu ra tòa thưa về tội cạnh tranh không công bằng như vụ kiện cá ba sa thì thật là cảnh “ biết rồi! khổ lắm nói mãi!”.
6.4.- LẬP THÀNH TÍCH DÂNG ĐẢNG SỚM NHẤT:
Thật vậy đại hội Đảng X sắp tới còn vấn vương nhiều vấn đề nhân sự nóng bỏng, thế mà hội Nhà Văn đã nỗ lực lập thành tích sớm nhất hoàn thành vượt bực chỉ tiêu xuất bản ngoài dự kiến khi gấp rút cho xuất bản nhật ký DTT tạo chiến dịch rầm rộ nhằm ru ngủ tầng lớp thanh niên trong hào quang anh hùng mới, nhằm quên đi vấn đề thời sự hiện tại. Để cho Đảng CS và nhà nước rảnh tay đối phó với những tiếng nói dân chủ, nhân quyền. Thật là một công hai ba cái lợi, chẳng đáng ghi kỷ lục cho hội nhà văn hay sao?
6.5.- TẬP SÁCH SỚM ĐI VÀO HIỆN THỰC NHẤT:
Nhật ký xuất bản chưa đầy hai tháng, mà những kẽ bảo hoàng hơn vua đã tâng bốc, nâng bi đã đề nghị gây quỹ lập bệnh viện DTT, đề nghị lập tên đường DTT giữa lòng Hà Nội. Lại còn có hãng phim dự định xây dựng thành phim bộ nhiều tập.( Báo Tuổi trẻ 12-8-2005 bài đưa nkdtt lên màn ảnh). Một tác phẩm văn học đi vào hiện thực còn nhanh hơn những tác phẩm đoạt giải Nobel thế giới... Và đây cũng là lần đầu tiên một cuốn sách Việt Nam được đánh gia sớm nhất, ngang tầm cỡ sách văn học quốc tế: Nhật ký Anne Frank(?)
6.6.- SÁCH TRUNG THỰC NHẤT SO VỚI BẢN GỐC(?)
Đây là cuốn sách được đảm bảo công khai bởi người biên tập và chỉnh lý đúng theo bản gốc. Chỉ cần đọc lại phần đầu bạn đọc có thể tự đánh giá kỷ lục này.
6.7.- KỶ LỤC CUỐI CÙNG LÀ CUỐN SÁCH DỐI TRÁ VÀ PHẢN BỘI NHẤT:
Phần dối trá đã trình bày ở trên từ nội dung nhật ký đến câu chuyện hư cấu đưa nhật ký từ tay DTT đến chiến trường, lưu giữ và xuất hiện vào thời điểm nóng bỏng hiện nay. Phần phản bội xem tiếp phần sau.
7.- TIỂU SỬ ĐẶNG THÙY TRÂM:
Nhằm mục đích giúp cho thế hệ trẻ Việt Nam dễ đọc thuộc lòng, dễ nhớ, học tập phấn đấu theo gương anh hùng Đặng Thùy Trâm.
Nhằm tiếp tay với Đảng CS và Nhà Nước quảng bá sâu rộng cho toàn thế giới biết mẫu “Anh hùng XHCN Việt Nam“
Dựa vào nhật ký, lời xác nhận của gia đình, nhân chứng liên quan, báo chí của Đảng, Nhà nước. Cuộc đời hoạt động của Đặng Thùy Trâm có thể tạm đúc kết rõ ràng như sau:
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942 trong một gia đình trí thức tiểu tư sản. Cha, Đặng Ngọc Khuê, là một chuyên gia giải phẫu có tiếng theo kháng chiến cho đến khi về hưu vẫn không được vào Đảng vì lý lịch không rõ ràng. Mẹ, Dược sĩ Doãn Ngọc Trâm, sau 30 năm cảm tình đảng mới được kết nạp, năm nay 81 tuổi, có một em trai Đặng Hồng Quang em trai út (đã chết ở Nga) và ba chị em gái là Đặng Kim Trâm em gái út, Đặng Hiền Trâm, và Đặng Phương Châm.
Từ nhỏ đã là cháu ngoan bác Hồ. Ngày 01.04.1960 kết nạp Đoàn. Năm 1960-1961 học sinh lớp 10C trường Chu Văn An Hà Nội. Sau đó học đại học y khoa chuyên về mắt. Trong 5 năm đại học, hằng ngày DTT học chính trị, học chuyên môn, hoạt động đoàn viên còn theo cha vào phòng mổ học lóm mổ xẻ, theo mẹ và chị em ra vườn đố vui học cây lá thuốc Nam, tối về theo cha học vẽ “anatomice”.
Năm 1966 DTT ra trường sớm một năm, loại ưu(?).Nhà trường không có hồ sơ lưu trữ, không có tên trong danh sách đã tốt nghiệp. Gia đình không lưu giữ văn bằng tốt nghiệp, hay hình ảnh kỷ niệm ngày ra trường. Năm 1967 đã khai man lý lịch là bác sĩ mắt để được làm công tác chuyên môn ở một bệnh xá nhỏ tại Đức Phổ Quãng Ngải. Ngày 17-9-1969 kết nạp Đảng.
Đã lập thành tích xuất sắc:
VỀ CHUYÊN MÔN: là bác sĩ mắt nhưng làm công việc của chuyên gia giải phẫu đủ các bệnh ruột thừa, ung thư dạ dày, cắt cụt chân tay, vá thận, chửa bệnh bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn. Tổng kết hoạt động trong một năm chết 5 người. Được tuyên dương diễn hình toàn tỉnh ngày 1.11.1968. Hãnh diện với hai chữ “Bác Sỹ”. Người trí thức toàn diện XHCN.
VỀ CHIẾN ĐẤU: Chưa một ngày cầm súng trực tiếp chiến đấu, đi đâu đều có người bảo vệ như là vốn quý của Đảng. Từng bị bỏ rơi một mình khi lính Mỹ càn quét, và không biết xử trí ra sao. Hăng say thề trả thù rất sắt máu, chiến đấu đánh đuổi đế quốc Mỹ trên giấy. Đã từng bị đế quốc Mỹ đánh cướp hai quyển nhật ký. Những ngày cuối cùng DTT bị đơn vị bỏ lại một mình với năm thương binh giống như một vỏ chanh đã vắt hết nước. DTT một mình chống lại 120 lính Mỹ như là một chuyện cổ tích vậy.
Lúc 17g20 ngày 22-6-1970 bị một viên đạn duy nhất bắn vào trán chết. Đặc biệt trước khi chết còn hô to khẩu hiệu “Hồ Chí Minh Muôn năm, đã đảo đế quốc Mỹ”. Khi chết để lại một cây súng SKS và một túi vải trong đó có sổ tay. Đó là nhật ký không phải là chuyện riêng của DTT.
Cuốn nhật ký được thông dịch viên Nguyễn Trung Hiếu cho là nhật ký có lửa, và được luật sư tiến sĩ FRED WHIDERICST lưu giữ 35 năm.
•Nay trước tình hình chính trị phức tạp sau chuyến đi Mỹ, Canada và Nhật Bản của Thủ tướng Phan Văn Khải.
•Nay trước tình hình Việt Nam vuốt ve Mỹ để được dễ dàng gia nhập WTO.
•Nay thực hiện lời kêu gọi của Thủ Tướng sau 30 chiến tranh “Xếp lại quá khứ hướng về tương lai”. Kêu gọi Việt kiều hải ngoại trở về xây dựng đất nước.
•Nay trước tình hình nóng bỏng về nhân sự tiền Đại Hội Đảng X
•Nay định hướng mới về lý tưởng tương lai cho thế hệ trẻ Việt Nam.
Nhật Ký Đặng Thùy Trâm được cấp tốc chỉnh lý, xuất bản nhằm phục vụ các nhu cầu chính trị nói trên. Câu chuyện này được Thủ tướng đích thân viết thơ khen tặng, cựu bí thư Đảng Lê Khả Phiêu, Đại tướng Chu Huy Mân, Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ đến gia đình thăm hỏi, chúc tụng, nhiều nhân vật khác nữa. Sáu trăm tờ báo Đảng, toàn bộ hệ thống truyền thanh truyền hình quảng cáo xây dựng chiến dịch tôn vinh DTT thành mẫu anh hùng thời đại đối với thế hệ trẻ Việt Nam, ngang hàng với Paven trong “Thép đã tôi thế đấy!”. Qua các hoạt động họp báo quốc tế, đồng hành thắp sáng, triển lãm bán tranh, hội thảo, hội thoại. Lập nhiều kỷ lục sáng chói cho nền văn học Việt Nam.
Để đền ơn đáp nghĩa, Đảng và nhà nước hô hào toàn dân lập quỹ xây dựng bệnh viện DTT, lập con đường DTT giữa lòng thủ đô Hà Nội. Trong chiều hướng phát triển tương lai đưa nhật ký vào phim bộ nhiều tập để chiếu khắp thế giới.
Và còn gì nữa, phần sau để dành cho Đảng và Nhà nước viết tiếp.
Ôi! Nhục nhã thay! Ê chề thay! Một thần tượng của tuổi trẻ thanh niên XHCN Việt Nam!
Một cú lừa vĩ đại vô tiền khoáng hậu của một nữ du kích tiểu tư sản, đã chết mà vẫn còn lừa được Đảng, Nhà Nước và báo chí truyền thanh truyền hình Việt Nam. Khâm phục! khâm phục!
Người lính già này xin ngả nón chào. Nếu có gì còn thiếu sót xin linh hồn Đặng Thùy Trâm linh thiêng báo mộng để điền khuyết nhất là những điều ấm ức chưa nói rõ trong nhật ký, cũng như tên tuổi người dàn dựng chưa xuất hiện trong câu chuyện anh hùng vĩ đại này.
8.- LỜI KẾT: SỰ PHẢN BỘI.
Thưa luật sư tiến sĩ Frederic Whitehurst,
Người đã lưu giữ và đọc đi đọc lại nhật ký DTT rất nhiều lần suốt 35 năm nay. Người viết xin nghiêng mình ngưỡng mộ lòng kiên nhẫn của ông. Ông cũng là người biết rõ và tôn trọng ý nguyện sau cùng của người viết nhật ký là gởi về cho gia đình.
05-06-69.:... Đêm rất khuya rồi, không ai chợp mắt. Th. ngồi lặng thinh bên mình, em không nói một lời nào mãi đèn lúc chia tay em mới nói một câu ngắn: “Chị làm sao chứ em lo quá đi...” và mình thì không nói hết một câu: “Chị gửi ba lô cho em trong đó có quyển sổ...” muốn nói tiếp rằng: “nếu chị không về nữa thì em giữ quyển sổ đó và sau này gửi về cho gia đình” (Tr.157)
Thế mà ông lại có ý định phổ biến công khai nhật ký DTT cho toàn thế giới biết trước khi trao lại cho gia đình. Phải chăng dự kiến hành động này là một sự phản bội lại ý nguyện của người đã chết?. Cũng giống như Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phản bội lại di chúc Hồ Chí Minh, ướp xác, chôn nổi giữa Ba Đình Hà Nội. Hành động của Đảng CS là một sự phản bội lãnh tụ, lịch sử sẽ phê phán. Riêng ý định của ông có thể châm chước, khoan dung khi mà ông đã thành tâm viết thư cho gia đình:
Thứ Sáu, 6.5.2005
Em gái Kim,
Bác sĩ Đặng Thùy Trâm là một anh hùng đối với toàn thế giới. Đó không phải một lời khoa trương mà hoàn toàn là sự thật. Anh Robert và tôi đã nghĩ rằng nếu không tìm được gia đình chị thì chúng tôi sẽ xuất bản một cuốn sách về chị Thùy, qua đó, nếu còn sống thì gia đình em sẽ biết về chị. Ý tưởng của em về một cuốn sách cũng trùng với ý tưởng của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ phần đầu của cuốn sách sẽ viết về Thùy bằng tiếng Việt và sẽ bao gồm cả những trang nhật ký. Phần giữa cuốn sách sẽ là những bức ảnh gia đình và các chiến sĩ giải phóng ở Đức Phổ, những người đã được Thùy che chở chăm sóc, rồi những bức ảnh do người phóng viên người Hà Nội đã hy sinh mà tôi đã kể cho em nghe. Phần cuối cuốn sách sẽ là bản tiếng Anh dịch phần thứ nhất sang. Cuốn sách sẽ được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới trong một thời gian ngắn. Thùy đã cho chúng ta mọi hy vọng về tương lai. Chị nhận thấy cái đẹp ngay giữa cuộc chiến tranh, điều đó quá đặc biệt, mọi người phải cùng biết tới. Đó là ý tưởng của chúng tôi. Đó là ý tưởng của chúng tôi. Fred (Di sản DTT - Talawas)
Giờ này ông đã cầm trên tay bản in của NXB Hội Nhà Văn, do gia đình DTT đích thân ký tặng. Vì thế tôi rất vững tin rằng: Hơn ai hết ông đã đọc kỹ và biết rõ ràng bản in nhật ký đã cắt xén và chỉnh lý, sửa đổi và bóp méo nội dung. Trong đó có cả những bức thư của ông cũng bị sửa đổi. Thế mà cho đến nay ông vẫn im lặng! Và sẽ mãi mãi im lặng(?).Sự im lặng khó hiểu này có thể giải trình theo hai trạng thái đối nghịch như sau:
8.1.- IM LẶNG LÀ MỘT HÌNH THỨC ĐỐI KHÁNG KHÔNG THÀNH LỜI:
trình hoạt động của ông theo thư ông tự giới thiệu. Lại đi chọn một giải pháp thuận theo thời thế của một người hèn nhát trước bất công, áp lực, dối trá và phản bội. Đây là một việc rất khó xảy ra đối với ông(?)
8.2.- IM LẶNG LÀ BẰNG LÒNG :
Nếu ông chấp nhận sự im lặng theo ý nghĩa này, cũng là có nghĩa ông đã phản bội ý nguyện tác giả nhật ký chỉ viết cho gia đình đọc chứ không phải cho thế giới đọc (Như đã trình bày trên). Ngoài ra ông đã phản bội lại ước mong của ông, cuốn nhật ký được xuất bản phải in toàn bộ các trang nhật ký bản gốc, thế mà giờ đây bản in trên tay ông chỉ là sản phẩm què quặt, méo mó so với bản gốc. Và ông cũng phản bội lại chính ông khi mà thư của ông bị chỉnh lý sửa đổi mà ông vẫn không có lời than phiền hay đính chính.
Theo luật học, sự im lặng trong trường hợp này phải chăng là một bằng chứng của sự đồng lõa? Là bằng chứng của đồng bọn? Thưa ông Frederic Whitehurst có phải thế không nhỉ?
Riêng bà Đặng Kim Trâm người đại diện cho gia đình đã đọc nhật ký DTT không những bằng lý trí của người biên tập mà còn bằng con tim của người em út đối với người chị đã tức tưởi nằm xuống. Hơn ai hết bà phải hiểu cuốn nhật ký đó không phản ảnh trung thực con người của Đặng Thùy Trâm. Thế mà bà vẫn làm công việc đóng góp phần ca tụng giả dối con người DTT theo nhật ký đã viết.
Chắc bà cũng đã hiểu rõ bề sâu của những trang nhật ký cuối cùng DTT nằm xuống trong hoàn cảnh bỏ rơi không lối thoát. Lời DTT ngày 20-6-70 ... Những câu hỏi cứ cứ xoáy trong đầu óc mình và những người ở lại. Vì sao? Lý do vì sao mà không trở lại. Có khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cách này sao?”. (Tr.255)
Đây là lời trăng trối của DTT. Là lời trăng trối chưa bao giờ nói hết. Với con tim chảy cùng dòng máu của bà, người viết tin rằng bà đã hiểu. Cuốn nhật ký không phản ảnh đúng cuộc đời thật của Đặng Thùy Trâm. Thế nhưng bà vẫn biên tập, đành đoạn cắt xén chỉnh lý nội dung bản gốc, sai lạc hết ý nghĩa đích thật nhật ký mà DTT đã viết. Như vậy bà đã lợi dụng nhật ký của chị bà như là một cái phao nổi trong xã hội. Hành động này chính là một tội lỗi khó tha thứ được đối với người đã chết. Nói một cách nào đó cũng là sự phản bội. Phản bội chính người chị ruột của bà.
Và bà vẫn xác định trên đài BBC bà đã biên tập lại hoàn toàn không bỏ sót câu nào(?)Trong khi bản in và bản gốc đã nằm trong tay bạn đọc như là một bằng chứng dối gạt của bà. Bà đã phản bội lòng tin yêu của độc giả đến với DTT như là một biểu tượng thời đại theo cách nói của Đảng và nhà Nước. Lời của bà “dám chịu trách nhiệm và không sợ thách thức của dư luận” có còn ý nghĩa nào không thưa bà Đặng Kim Trâm?
Bài viết trên đã dài, thế nhưng vẫn chưa nói hết những điều còn thắc mắc trong lòng người viết như là động cơ trong sáng nào đưa nhật ký DTT đến với độc giả? Đàng sau sự dàn dựng câu chuyên anh hùng là cái gì? Đảng và Nhà Nước CS đề cao Nhật ký DTT trong tình hình xếp lại quá khứ hương về tương lai là nhằm vào mục đích gì? còn nhiều nữa... người viết không nhớ hết xin dành cho độc giả viết tiếp vậy.
THIÊN ĐỨC
"
http://batkhuat.net/bl-dtt-sanpham-doitra.htm
0 nhận xét:
Đăng nhận xét