NGUYỄN THIÊN THỤ * CAO TẦN




 CAO TẦN
 NGUYỄN THIÊN THỤ


Ông  tên Lê Tất Điều, sinh  năm 1942 tại Ðông,di vào Nam năm 1954. Ðịnh tại Hoa Kỳ từ tháng 5-1975 và lấy bút hiệu Cao Tần.  
Từ 1976 - 1979: Hợp tác với tạpchí Hồn Việt, Bút Lửa, Văn Học NghệThuật.
 Tác phẩm :
Truyện ký: KẻTình Nguyện, 1963 ; Quay Trong Gió Lốc, 1965 ; Ðêm Dài Một Ðời, 1966; Những Giọt Mực, 1970. Thơ:Thơ Cao Tần, BútLửa, 1977.
 Thơ ông là thơ hiện thực. Là bản “chứng chỉ tại ngũ “ của  “Gẫy cánh Đại Bàng”: 

Ngàn lẫm liệt tan trong chiều rã ngũ


Muôn anh hùng phút chốc hóa lang thang (Cảm khái)


Thơ  ông là  họa phẩm  về chiến trường, lao tù và biển đông:


Một đời quê hương khét mùi súng đạn
Một đời xót xa bằng hữu lao tù
              (Hát ngao trên tuyết)



- Biển Đông giờ này bao thuyền hấp hối .. 
Lòng bắt đầu mơ những điều huyền hoặc
Mơ con tàu cảm được những thương tâm
Nghe được tiếng đàn bà con trẻ khóc
  Và xót xa như có một linh hồn (Đóng tàu)


         -Có thằng bạn nào tàn đời học tập
           Cõng gông xiềng lê lết một thân đau


        Này biển chiều sóng xô ào lớp lớp
       Những tiếng đời tan nát khóc thương nhau. (Biển chiều )


              Đi sâu vào thơ  Cao Tần, chúng ta thấy hoài hương và lưu đày là hai nét đậm đà  nhất.Thơ ông rất đặc biệt với cái giọng bất đắc chí của Cao Bá Quát, Trần Tế Xương.Sống bên Mỹ, ông thấy xa lạ:


        Chiều đi bát phố gặp toàn Tây
          Bỗng tiếc xưa không làm quen cả xóm
       Tự trách mình ngu hơn con cầy (Chiều bát phố)


              Ông luôn mơ đến  Saigon, đến kỷ  niệm cũ :


Em hãy tìm về sau căn nhà cũ


Đứng bên rào mà ngó lại vườn xưa


Em nhớ nhé: dưới tàn cây trứng cá


Những trái mọng hồng trong ánh nắng sau mưa


Ở góc vườn còn một viên gạch vỡ


Nơi nảy mầm hy vọng một giàn dưa
Kín đáo nghe em, giờ nhà đổi chủ


Nhưng kho tàng ta chắc còn nguyên đó (Chỗ giấu kho tàng)
 
Bài thơ sau đây là một bài thơ  rất đặc sắc,đã đặt đỉnh cao của nhục vong quốc, thân phận lưu đày và nghệ thuật trào lộng, ngang tầm với Thuật hoài của Đặng Dung và Hồ trường  của Nguyễn Bá Trác:


            MAI MỐT ANH VỀ

Mai mốt anh về có thằng túm hỏi
Mầy qua bên Mỹ học được củ gì
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi
Nói mầy hay ông thượng đẳng cu li

Ông rửa bát chì hơn bà nội trợ
Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan
Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió
Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan

Nghệ thuật nói bỗng hóa trò lao động
Thằng nào nói nhiều thằng ấy tay to
Tiếng mẹ thường chỉ dùng chửi đổng
Hay những đêm sầu tí toáy làm thơ

Ông học được Mỹ đất trời bát ngát
Nhưng tình người nhỏ hơn que tăm
Nhiều đứa hồn nhiên giống bầy trẻ nít
Còn hồn ông: già cốc cỡ nghìn năm

Bài học lớn từ khi đến Mỹ
Là ngày đêm thương nhớ nước mênh mang
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng

Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương
Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp
Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm
Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy
Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng

Trich Nguyễn Thiên Thụ -Văn Học Sử Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại
Sau đây là bản Anh ngữ
Sẽ xuất bản.





CAO TẤN

           
 Cao Tần,  was born Lê Tt Điều in 1941 in Hà Đông (Hà Ni), moved to South of Vietnam in 1954. He came to the USA in 1975. He cooperated with Văn Hóa Ngày Nay Journal  and Tân Phong Journal. In the USA,    in 1985, he and Võ Phiến founded Văn Học Ngh Thut magazine (Literature and Arts), and he was director. His work entitled ''Thơ Cao Tn ( Cao Tn's Poems) published 1978  are the poems of exile. Day and night, he dreams of his natal country:
Em hãy tìm v sau căn nhà cũ

Đng bên rào mà ngó lại vưn xưa

Em nh nhé: dưi tàng cây trng cá

Nhng trái mọng hng trong ánh nng sau mưa

Ở góc vưn còn mt viên gạch v?

Nơi nảy mm hy vọng mt giàn dưa

Kín đáo nghe em, gi nhà đi chủ

Nhng kho tàng ta chc còn nguyên đó (Ch giu kho tàng)


Stand out side by the fence,

and look at our old garden of flower

Please, remember

In the past,  on the branches

The  fruit became red under the sun after the rain.

And in a corner,

At a  broken brick

Where stood  a frame of melon.

Please keep secret, my dear

Our house now belonged to the new owner.

However,

Our treasure is still there 
(My treasure)

He thinks of   his  homecoming on a happy day:


Ôi! Xóm xưa khi, khi nào đi kiếp

Ta v thành chim hót trưc hiên nhà (Chiu bát ph )


Oh my old hamlet!

When the world would change one more time

     I would be a bird singing in front of my house.

                       (Evening walking)

His poems expresses strongly state of mind of some refugees in the new land where they fell sad and shameful, and sometime they ironize themselves:

Nói mày hay ông thưng  đng cu li,

Ông ra bát chì hơn bà ni tr

Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan

Ngày ngày phóng xe như thng phải gió

Đêm đêm v nm vùi nưc mt cha chan. (Mai mt anh trở v)

You must know that

I am a super worker

I am better

Than a house wife

In washing dish.

As an excellent sweeper

I am better than the young cleaner

As a fool, I drive fast

At night  when I  go to bed

My  eyes are full of tears.
 (The day of homecoming)

(Thụ Thiên Nguyễn - History of Vietnamese Literature from Beginning to the Present days)




Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét