NGUYỄN VỸ VỚI THƠ VÀ BÁO
Nhà báo Nguyễn Vỹ sinh năm 1912 tại làng Tân Hội (sau đổi là Tân Phong, và năm 1945 lại đổi tên Phổ Phong), thuộc huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông tên Nguyễn Tuyên từng làm quan ở huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định, nhưng do chống Pháp nên đã từ chức, còn mẹ ông là bà Trần Thị Luyến. Ngoài ra ông có người bác là Nguyễn Thuyên từng bị quân Pháp đày Côn Đảo, anh họ là Nguyễn Nghiêm, thủ lĩnh phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh ở Quảng Ngãi năm 1930 sau bị giết hại tại tỉnh nhà.
Nguyễn Vỹ từng theo học tại trường Trung học Pháp-Việt ở Qui Nhơn 1924–1927, rồi gián đoạn vì tham gia các cuộc vận động chống thực dân, sau đó ra miền Bắc theo học ban tú tài tại Hà Nội.
Năm 1934, ông xuất bản tập thơ đầu tiên, tên là Tập thơ đầu. Tập thơ này gồm hơn 30 bài thơ Việt và thơ Pháp. Tập thơ đầu in ra không được nhiều thiện cảm, bị cho là rườm rà. Năm 1937, Nguyễn Vỹ sáng lập tờ Việt Pháp lấy tên là Le Cygne, tức Bạch Nga. Báo này ngoài Nguyễn Vỹ còn có nhà văn nổi tiếng bấy giờ là Trương Tửu cộng tác.
Sau do Nguyễn Vỹ có viết nhiều bài viết chỉ trích đường lối cai trị của Pháp nên tờ báo rút giấy phép xuất bản vĩnh viễn. Còn bản thân ông bị qui kết tội phá rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia. Kết quả ông bị tòa án thực dân tuyên phạt 6 tháng tù và 3000 quan tiền phạt. Ông mãn tù năm 1939, lúc Pháp thất trận khi quân Nhật vào chiếm đóng. Nguyễn Vỹ lại tranh đấu chống Nhật, ông dùng ngòi bút cho xuất bản hai quyển sách chống chế độ quân phiệt Nhật là : Kẻ thù là Nhật bản; Cái họa Nhật-Bản.
Sau do Nguyễn Vỹ có viết nhiều bài viết chỉ trích đường lối cai trị của Pháp nên tờ báo rút giấy phép xuất bản vĩnh viễn. Còn bản thân ông bị qui kết tội phá rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia. Kết quả ông bị tòa án thực dân tuyên phạt 6 tháng tù và 3000 quan tiền phạt. Ông mãn tù năm 1939, lúc Pháp thất trận khi quân Nhật vào chiếm đóng. Nguyễn Vỹ lại tranh đấu chống Nhật, ông dùng ngòi bút cho xuất bản hai quyển sách chống chế độ quân phiệt Nhật là : Kẻ thù là Nhật bản; Cái họa Nhật-Bản.
Lần này, Nguyễn Vỹ lại bị quân Nhật bắt giam tại ngục Trà Khê (sau này trong tạp chí Phổ thông bộ mới, Nguyễn Vỹ có kể lại những ngày sống trong tù ngục với tựa bài Người tù 69).
Năm 1945, thế chiến thứ hai chấm dứt, Nguyễn Vỹ ra tù, sáng lập tờ báo Tổ quốc tại Sài Gòn, trong ấy có những bài công kích chính quyền đương thời nên chỉ ít lâu sau, báo này bị đóng cửa. Sau đấy, Nguyễn Vỹ lại cho ra tờ Dân chủ xuất bản ở Ðà Lạt, chống chính sách quân chủ lập hiến của Bảo Ðại. Tồn tại chẳng bao lâu, đến lượt tờ báo trên cũng bị đình bản.
Năm 1952, một nhật báo khác cũng do Nguyễn Vỹ chủ trương là tờ Dân ta, sống được một thời gian, cuối cùng cũng bị đóng cửa như các tờ báo trước. Mãi đến năm 1958, ông đứng ra chủ trương bán nguyệt san Phổ Thông, chú trọng về nghệ thuật và văn học, tạp chí này được kể là có nhiều uy tín đối với làng báo miền Nam. Ngoài ra, ông còn cho ra tuần báo Bông Lúa, Tuần báo thiếu nhi Thằng Bờm…
Năm 1956, Nguyễn Vỹ được mời làm cố vấn cho chính quyền thời bấy giờ, nhưng chỉ ít lâu sau ông rút lui. Trong khoảng thời gian này ông được phép tái bản nhật báo Dân ta (bộ mới) nhưng đến năm 1965 cũng lại bị đóng cửa và từ 19674 tháng 2 năm 1971, ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường Tân An (thuộc tỉnh Long An)- Sài Gòn, hưởng dương 59 tuổi. Nguyễn Vỹ chỉ còn chủ trương tạp chí Phổ Thông mà thôi.
Tác phẩm : Tập thơ đầu – Premières poésies (Thơ Việt và Pháp), xuất bản tại Hà Nội, 1934 – Đứa con hoang (tiểu thuyết) Nxb Minh Phương, Hà Nội, 1936 – Grandeurs et Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (tập truyện ngắn Việt Nam bằng Pháp văn) Nxb Đông Tây, Hà Nội, 1937 – Kẻ thù là Nhật Bản (luận đề chính trị), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1938 – Cái họa Nhật Bản (luận đề chính trị), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1938 – Đứng trước thảm kịch Việt Pháp – Devant le drame Franco Vietnamien, (luận đề chính trị bằng Việt và Pháp văn) xuất bản ở Đà Lạt 1947– Hào quang Đức Phật (luận đề tôn giáo) tác giả xuất bản, Đà Lạt 1948 – Thi sĩ Kì Phong (tiểu thuyết, 1938) – Chiếc Bóng (tiểu thuyết) Nxb Cộng Lực, Hà Nội 1941 – Chiếc áo cưới mầu hồng (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957 – Người yêu của hoàng thượng (tiểu thuyết) Nxb Minh Phương, Hà Nội 1958) – Giây bí rợ (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957 – Hai thiêng liêng I & II (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957 – Hoang vu (thơ) Nxb Phổ Thông, Sàigòn 1962 – Mồ hôi nước mắt (tiểu thuyết), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1965 – Những đàn bà lừng danh trong lịch sử (biên khảo), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1970 – Tuấn, chàng trai nước Việt I & II, (chứng tích thời đại), Nxb Triêu Dương, Sàigòn, 1970 – Văn thi sĩ tiền chiến (ký ức văn học), Nxb Khai Trí, sàigòn, 1970 – Buồn muốn khóc lên (thơ) 1970 – Mình ơi (văn hóa tổng quát) 1970 – Thơ lên ruột (thơ trào phúng) 1971
Bên cạnh những tập sách biên khảo có giá trị như Văn thi sĩ tiền chiến, Tuấn – chàng trai nước Việt… Nguyễn Vỹ còn viết nhiều bộ tiểu thuyết, nhưng được đánh giá là không thành công. Riêng về thơ, ông nhận được nhiều lời khen chê. Trong Tập thơ đầu (1934), Nguyễn Vỹ có đăng vài bài theo lối 12 chân (alexandrins), một lối thơ mới trên thi đàn Việt Nam, nhưng không lạ gì đối với thi đàn Phương Tây.
Mà còn rên dưới rễ cỏ những vết hận lòng lai láng…
(Gửi một thi sĩ của nước tôi, Hà Nội báo, số 23, 1936)
Chính vì lẽ đó, ông bị Thế Lữ cho rằng ông có ý định toan lòe và bịp mọi người[4], còn Vũ Ngọc Phan thì viết : Với thời gian, không một ai có thể bị cám dỗ mãi về những cái tầm thường, chỉ cầu kỳ có bề mặt. Và Hoài Thanh và Hoài Chân đã viết về Nguyễn Vỹ như sau :
Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ nhau xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì…
Chê bai, nhưng ngay sau đó hai ông cũng phải nhìn nhận:
Một bài như bài “sương rơi” được rất nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để diễn tả một cái gì đương rơi. Cái gì đó có thể là những giọt lệ…Nhưng “sương rơi” còn có vẻ một bài văn. “Gửi Trương Tửu” mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả một hạng người.
Khác với những ý trên, Lan Khai trong báo Đông Phương, Phạm Huy Thông trong báo L’Annam nouveau (báo của Nguyễn Văn Vĩnh), Lê Tràng Kiều trong Hà Nội báo (số 23, ngày 10 tháng 6 năm 1936) lại hết sức khen ngợi thơ Nguyễn Vỹ. Và trong quyển Hồn Thơ nước Việt thế kỷ XX. có ghi lời của Lam Giang (tác giả Khảo luận thơ mới, NXB Hà nội, 1940) như sau :
Phê bình Nguyễn vỹ, Hoài Thanh phát biểu một ý kiến võ đoán : “Nguyễn Vỹ chí lớn mà tài nhỏ nên hay lập dị, chứ thật sự ít có thành tích văn chương”. Tôi thiết tưởng cái công du nhập đầu tiên lối thơ nhạc vào thi đàn Việt Nam, giữa lúc rất nhiều người chỉ chăm lo đả kích Luật Đường, chứ chưa sáng tạo được một thể điệu gì mới, cũng đáng cho chúng ta nhìn tác giả với một nhãn quang nhiều thiện cảm hơn.
Năm 1962, tập thơ thứ nhì mang tên Hoang vu ra đời. Bình luận về tập thơ này, nhà văn Thiết Mai trong Sáng dội miền Nam viết :
Nguyễn Vỹ đã nếm mùi tân khổ, gian lao…lại ở vào cảnh giao thời của hai thế hệ, trong tình trạng bi đát nhất của lịch sử nước nhà, nên Nguyễn Vỹ đã trở thành con người rắn rỏi, yếm thế…rồi đi đến tâm trạng căm hờn, biếm nhạo, khắc khe, chua chát…Nhưng lúc trở lại với bẩm tính vốn có, chúng ta thấy ông hiền dịu, đa tình, đa cảm, thiết tha với một đời sống êm đềm…
Về tài thơ, ta thấy thơ của ông được cấu tạo đễ dàng, không gò ép…Điều đáng chú ý là ông như muốn đưa những thể mới, có tác dụng gây xúc cảm, có âm điệu du dương, hợp tình để gợi tình và tả chân mạnh hơn. Thể mới ấy được thấy trong các bài thơ: Sương rơi, Mưa rào, Tiếng chuông chùa…
Về ý thơ, Nguyễn Vỹ đã có nhiều ý tưởng, nhiều câu văn táo bạo (Hai người điên, Hai con chó, Trăng, Chó, Tù, Đêm trinh…). Điều này khiến thơ của ông thoát ra khỏi lối thường tình, cổ điển và cũng chứng tỏ ông là con người có nội tâm cứng rắn, thành thật, dám biểu lộ tâm tư mình bằng những hình ảnh thiết thực do lòng mình suy tưởng…
Nguyễn Vỹ góp mặt vào làng thơ tiền chiến từ năm 1934, thời kỳ thơ mới đang hồi phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, phần đông thi sĩ thường đem khung cảnh lãng mạn, chuyện tình ái vào thi ca…Nhưng với Nguyễn Vỹ, có thể nói nhà thơ không lấy tình yêu làm đối tượng, vì thế thơ ông có một đường nét độc đáo riêng biệt.
Đọc Nguyễn Vỹ, người ta cảm nhận những điều mỉa mai, chua chát…là sự tức tối như muốn phá vỡ cái gì trong hiện tại đang bị dồn ép, uất ức để nói lên nỗi thống khổ của kiếp người…
Thời tiền chiến, thân phận Nguyễn Vỹ đã thế, nhưng với ý chí phục vụ văn nghệ, trung thành đường hướng vạch sẵn, ông, một nhà thơ từng chịu nhiều cam go trên đường tạo lập văn nghiệp, đã kiên trì xây dựng lại Trường thơ Bạch Nga trong bán nguyệt san Phổ Thông từ Trung thu năm 1962 và được nhiều bạn đọc hưởng ứng, chứng tỏ lời nói trước kia của Lê tràng Kiều là đúng: “Người ta công kích ta, chỉ chứng tỏ là ta sống”…. Vậy, Nguyễn Vỹ ngày nay hãy yên ổn với trường phái của mình.”
Nguyễn Vỹ là một nhà thơ có thực tài.Ông có cái nhìn thường xuyên vào thực trạng xã hội, theo dõi những màu sắc biến đổi của nhịp sống dân tộc đã chịu nhiều thảm họa; hòa lẫn vào đấy là tình thương yêu đồng loại. Tiếng thơ của Nguyễn Vỹ là tiếng nói chân thành phát xuất tự con người còn nghĩ đến quê hương.
(Trong Wikipedia)
TAO ĐÀN BẠCH NGA CỦA NGUYỄN VỸ
Thuở còn bé ở Sa đéc, tôi ở với người cậu Năm là một nhà trí thức mới ở tỉnh nhà. Nhà nghèo nhưng sách vở không thiếu quyển gì, nhất là báo chí của thời kỳ đó. Thường thì tôi lén lấy xem trong lúc cậu tôi đi làm ở tòa hòa giải Sa Đéc. Tôi coi hết các báo trong đó có tờ Phổ thông bán nguyệt san khá mỏng với những nhà văn như Lê Tràng kiều, Thượng Sỹ…
Thời gian qua, sách vở xưa hầu như rêu mốc cả, cậu tôi đi quân dịch rồi đi luôn. Tôi với bà ngoại phải lên Saigon ở nương náu nhà người cậu Tư, nhưng không ở lâu được tôi bỏ nhà ra đi bụi đời từ năm mười lăm, mười sáu tuổi.
Tôi nhớ lại năm 1963, ông Nguyễn Vỹ có cho tôi ba ngàn đồng tiền riêng để tôi in tập thơ đầu tiên Thơ Trần Tuấn Kiệt do Bùi Giáng đề tựa và Nguyễn Trung vẽ bìa.
Thời kỳ sung túc nhất của báo Phổ Thông sau này khác với Phổ Thông bán nguyệt san thời xưa, thời tiền chiến. Báo quy tụ hầu hết các nhân vật tên tuổi, các nhà văn hóa từ Bắc di cư vào và các nhà văn miền Nam như Thiếu Sơn, ông Triệu Công Minh là chồng bà Ái Lan tên tuổi lẫy lừng thời đó.
Tôi không làm hẳn ở Phổ Thông, chỉ đến chơi với Nguyễn Thu Minh và vợ là Phương Duyên. Hai người này đều có chân trong tao đàn của Nguyễn Vỹ. Đó là thi đàn Bạch Nga lấy tờ nguyệt san Phổ Thông làm diễn đàn. Tao đàn Bạch Nga có Nguyễn Vỹ làm chủ soái. Nguyễn Thu Minh làm thư ký và rất đông các thi sĩ đương thời góp mặt như cô Thu Nhi, Tôn Nữ Hỷ Khương, Minh Đức Hoài Trinh (Pháp), Ngọc Hân, Phương Đài, Thùy Dương Tử, Tuệ Mai, bác sĩ Nguyễn Tuấn Phát và tôi.
Lúc này tôi đồng ý vào tao đàn Bạch Nga với Nguyễn Vỹ làm thơ 2 chữ, 10 chữ, 12 chữ, tất nhiên là còn các loại thơ khác. Mỗi năm Tao đàn Bạch Nga mở cuộc thi sáng tác thơ tự do. Tôi phụ trách chấm thi hầu hết các giải này, nhờ thế tôi khám phá ra nhà thơ Thùy Dương Tử ở Quảng Nam làm thơ thật hay để chấm anh giải nhất của Tao đàn Bạch Nga.
Sở dĩ ông Nguyễn Vỹ không bắt buộc các nhà thơ làm thơ làm thơ 2 cước, 8 cước, 12 cước như ông để tránh bị phản đối kịch liệt như thơ tiền chiến. Thời đó ông ở nhóm Hàn Thuyên có Đặng Thái Mai, Nguyễn Đức Quỳnh… theo thuyết xã hội thường phê phán các tác phẩm của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương Tự Lực văn đoàn. Nổi bật nhất là cụ Thượng Sỹ đưa ra nhiều bài phê bình các tác giả thời đó, tất nhiên là bị nhóm Tự lực văn đoàn tấn công lại dữ dội.
Nguyễn Vỹ nêu lên cách làm thơ hai chữ, mười hai chữ như Tây. Người công kích ông nhiều nhất là Hoài Chân, Hoài Thanh trong Thi nhân Viêt Nam cho Nguyễn Vỹ là bất tài, khua chiêng trống rùm beng mà thôi. Tôi cũng một thời gian chịu ảnh hưởng sự công kích ấy nên sau này khi soạn Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, sách dầy 1300 trang do nhà Khai Trí in và tái bản vài lần ở Mỹ, tôi cũng lên tiếng chỉ trích. Công tâm nhận xét thì ông Nguyễn Vỹ đã cố gắng phổ biến Tao đàn Bạch Nga, cổ súy cho thơ từ 2 chữ đến 12 chữ theo Âu châu cũng là ý kiến tốt, muốn đổi mới nghệ thuật thơ mới vì thơ cũ ở VN thời đó đã khá nhàm. Thi phẩm Hoang Vu của ông có giá trị ngang hàng với tất cả những thi nhân đương thời và cả ngày nay.
Phong cách Âu châu, tư tưởng cấp tiến của ông thời đó đã làm xốn con mắt của nhiều người đương thời nhất là Hoài Chân, Hoài Thanh trong khi quyển thi nhân VN của Hoài Chân Hoài Thanh tái bản luôn mà không sửa đổi gì cả. Thế ra cái án văn chương này vẫn còn tiền lệ tạo ra sự coi thường nhà thơ Nguyễn Vỹ bất công đến bao giờ.
Trong bài thơ nổi tiếng Gửi Trương Tửu, Nguyễn Vỹ đã than thở : Nhà văn An Nam khổ như chó. Quả vậy, Vita tác giả Mây Ngàn chết vì lao bên Pháp, Vũ Trọng Phụng chết vì lao ở VN, Anh Hợp chết bên đống rác hay Hàn Mặc Tử lẩn lút đau thương trọn đời về bệnh cùi. Lê Văn Trương do anh em chôn cất lúc đó Nguyễn Vỹ lo liệu gần hết, chôn xong thì căn nhà của Lê Văn Trương vừa bán ở đường Trần Hưng Đạo phải giao cho người ta.
Cụ Tam Ích tuy được gia đình lo cho đầy đủ nhưng có lần ngồi quán ở Cao Thắng với TTKiệt, cụ cũng nói :
Cụ Tam Ích tuy được gia đình lo cho đầy đủ nhưng có lần ngồi quán ở Cao Thắng với TTKiệt, cụ cũng nói :
– Mày đi mua cho thày mấy viên aspirin.
Bài thơ của Nguyễn Vỹ đã lột lên chân tướng xã hội của các nhà văn đương thời. Ta thử nhìn lại loại thi ca thời tiền chiến, Xuân Diệu ca ngợi ân tình quên đi những kiếp người khốn khổ. Bài thơ Lời Kỹ Nữ có có cái thi hứng phong lưu thời đại hơn là lột trần ra sự cùng khổ thời đại như Victor Hugo, Chế Lan Viên ca ngợi đất nước Chiêm Thành cũ và nói về sự vong quốc, Quách Tấn ảnh hưởng nặng nề của Trung quốc, Vũ Hoàng Chương viết Kinh Kha sang Tần… Thời đại ấy làm thơ viết văn tả thực dường như chỉ có Gởi Trương Tửu là tiêu biểu nhất. Thế mà Hoài Thanh Hoài Chân đã phớt lờ hay nhắc rất ít lời. Quả nhiên là có nhiều vị kỷ, thiên kiến mà ra vậy.
Mặc dù thời trai trẻ than thở Nhà văn An nam khổ như chó nhưng đến trung niên thì đất nước chia đôi. Các nhà thơ di cư vào Nam, xuất bản sách vở báo chí ra được nhiều độc giả chào đón nồng nhiệt. Báo Phổ thông lúc bán chạy nhất lên đến hai mươi lăm ngàn số. Nguyễn Vỹ rất nhiệt tình giúp đỡ các nhà văn cũ như Lê Tràng Kiều, Vũ Bằng. Một nhà văn lão thành là cụ Đàm Quang Thiện đã dịch Thần thoại Hy Lạp cho Phổ thông, cả Thẩm Thệ Hà, Thanh Việt Thanh và nhất là Lê Văn Trương khi còn sống.
Tao đàn Bạch Nga rất đông vui, lúc nào cũng có các thi sĩ trẻ đến chơi và nhập đoàn. Phạm Công Thiện cũng dịch cho báo. Nguyễn Vỹ gây dựng được thanh thế và giàu có. Ông sắm xe hơi đắt tiền, mướn lầu ở gần Cầu Kho đầy đủ mọi phương tiện. Nhưng có tài thì có tật, đó là điều người đời dị nghị về ông nhiều. Ngoài gái gọi mà tôi thường gặp ở căn lầu đó, nhiều phụ nữ khác đến với ông vì chuộng danh tiếng tài năng của ông. Vì thế sự ganh tỵ về bè nhóm cũng không phải là ít.
Một hôm tại nhà của bà chị thi sĩ Bích Khê (Tinh Huyết thi phẩm) giữa lúc đông có cả Đinh Hùng, Đinh Cường, ông Nguyễn Vỹ cầm tập Thơ Trần Tuấn Kiệt mới xuất bản và dường như có giới thiệu tôi là một thiên tài mới xuất hiện. Sau đó một năm, tôi cho in quyển Thơ Nai và gởi tặng nhà thơ Đinh Hùng ở ban Tao Đàn trên đài Phát thanh Saigon. Lúc này cụ Lam Giang Nguyễn Quang Trứ có đề xuất tôi cộng tác cho Đài Phát thanh, giám đốc là nhà thơ Phạm Xuân Ninh tức Hà Thượng Nhân.
– Mày có nghe chương trình Tao đàn chưa ?
– Tao không nghe. Có gì không ?
Nghiêu Đề nói :
– Hồi tối Tao đàn đọc thơ mày trên đài nhưng có vẻ tấn công mày.
Tôi nổi dóa, lập tức đi lên Đài phát thanh ghé vào văn phòng Hà Thượng Nhân hỏi :
– Đêm hôm qua Đinh Hùng tấn công thơ tôi trên đài, ông có biết không ?
Hà Thượng Nhân từ tốn nói :
– Tôi có nghe, mà Đinh Hùng đâu có chê gì đâu ?
– Để tôi lấy bài viết của Đinh Hùng cho ông xem lại.
Tôi bỏ đi xuống lầu, đến chỗ ngăn để bài, lấy ngay bài của Đinh Hùng trong ngăn mục Tao đàn ra xem qua, lên trao Hà Thượng Nhân rồi bỏ về nhà.
Từ khi tôi in Thơ Trần Tuấn Kiệt và Thơ Nai, các báo chí đều viết khen ngợi, không ai chê cả nên nên tạo cho tuổi trẻ của tôi lúc đó sự kiêu hãnh. Nay đọc bài viết của Đinh Hùng nói thơ Trần Tuấn Kiệt chịu ảnh hưởng Haikai, tanka… của Nhật bản. Tôi bực bội bèn viết một bài trả lời Đinh Hùng đem đến Phổ Thông. Trong đó tôi tấn công dữ dội Tao Đàn, trả lời cho Đinh Hùng biết loại thơ nhỏ vài ba câu do tôi sáng tạo chứ không hề chịu ảnh hưởng gì của Nhật cả. Thơ Nhật ngoài thi hào Basho, ít có thi sĩ làm thơ hay, kém cả thơ Tàu, thơ Tây nhiều, không thể nói tôi chịu ảnh hưởng thơ Nhật được. Tôi tấn công Đinh Hùng là vọng ngoại và thách ông đấu thơ với tôi ở bất cứ nơi nào.
Nguyễn Vỹ thấy trầm trọng quá nên lưỡng lự không dám đăng. Một là sợ xảy ra bút chiến, hai là thế lực Đinh Hùng rất mạnh. Ông này là bạn của cố vấn Ngô Đình Nhu, thường nằm hút chung mâm đèn với cố vấn. Chỉ cần cố vấn gặc cái dọc tẩu xuống mâm đèn, ra lệnh một tiếng thì Nguyễn Vỹ và tôi bị mật vụ hỏi thăm sức khỏe ngay.
– Ông không đăng bài tôi trả lời trên Phổ thông, tôi sẽ đăng báo khác.
Lúc đó một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp đi vào, cũng là thi sĩ của tao đàn Bạch Nga, chị Ngọc Hân nói với Nguyễn Vỹ :
– Đăng bài trả lời của anh Kiệt đi anh.
Nguyễn Vỹ nghe nói bèn chiều lòng nàng, bảo với tôi :
– Thôi anh đem bài cho chef typo sắp chữ
Lúc này anh Năm Ô tức thi sĩ Nguyễn Vương, một người thợ sắp chữ và trình bày cho báo Phổ thông, sau đó là báo Nghệ thuật của Mai Thảo, anh cùng quê với tôi ở Sa Đéc, lập tức chia bài cho thợ xếp chữ ngay cho kịp số báo tới. Bài báo vô tình tạo ra một hố ngăn cách và hiềm khích mãnh liệt giữa hai bên.
Tao đàn Bạch Nga ở được một thời gian khi báo Phổ thông lên, rồi đến thời kỳ sa sút, Phổ thông bán ế dần cho đến khi chỉ còn một ngàn số.
Đó là vì thời đại này có nhiều báo ra đời như Văn hóa Ngày nay, Tân Phong của Nhất Linh , báo Văn do Trần Phong Giao làm thư ký, Văn học, nhất là các báo Tiểu thuyết Thứ Bảy… lấy hết độc giả của Nguyễn Vỹ, nhiều lần tôi đề nghị thay đổi từ nội dung cho đến cách trình bày nhưng Nguyễn Vỹ là người kỳ cựu trong làng báo, không khi nào nghe lời một thanh niên còn quá trẻ như tôi, ông trở thành bảo thủ hơn nữa. Khi báo thất bại, Nguyễn Vỹ thường rủ anh em đến chùa Cổ Sơn Môn chơi giải khuây.
Càng ngày có nhiều báo mới ra, nguyệt san Thời Nay toàn dịch tài liệu trên báo ngoại quốc như Selection. Tờ này lấy rất nhiều độc giả của Phổ Thông vì tin tức và bài vở ăn khách. Ngoài ra còn Văn của Trần Phong Giao lấy bài của các tác giả cộng tác định kỳ về in. Một vài báo của sinh viên như Huyền của Khưu Ban Lâm, Mai Vi Phúc, Nguyễn Á Châu… tôi làm thư ký tòa soạn báo này.
Đáng kể là Văn hóa Ngày nay của Nhất Linh, đối với tờ này là Sáng Tạo của nhóm Trần Thanh Hiệp, Mai Thảo, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Hoàng Bảo Việt, Vương Tân, Trần Dạ Từ… Họ viết nhiều đến chủ nghĩa hiện sinh. Đó là thời của Hiện sinh, ai cũng thích đọc và nghiên cứu về thi ca siêu thực của Breton và các tác giả mới của văn hóa hiện đại. Có cả Văn Nghệ do anh ruột của thi sĩ Quách Thoại là là Đoàn Tường trông nom.
Nguyễn Vỹ và tao đàn Bạch Nga như đóa hoa héo dần, sau này Phổ Thông in một ngàn số mà cũng rất khó bán. Nguyễn Vỹ còn cho ra đời nhật báo Dân Ta do Hải Âu làm tổng thư ký và ông Triệu Công Minh, chồng bà Ái Lan, mới ở Pháp về, hợp tác. Độc gỉả quên dần Phổ Thông để đọc các báo mới từ văn nghệ đến văn học nghệ thuật đều tân tiến.
Anh em chúng tôi làm báo Ngàn Khơi của Nguyễn Hữu Đông rồi tạp chí Tiếng Nói của Trần Dạ Từ. Các báo Văn học, Thế Kỷ Hai Mươi, Đại Học và rất nhiều báo khác tự do ra đời. Các tờ báo như Giáo Dục dường như có bài của Kiêm Đạt. Giáo sư Nguyễn Duy Diễn được giới học sinh và phụ huynh sốt sắng ủng hộ. Tân Phong, Thẩm Mỹ, Phụ Nữ Diễn Đàn có nhiều độc giả, Bình Nguyên Lộc ra báo Vui Sống. Quá nhiều sách báo in ấn thời đó phổ biến tư tưởng văn hóa Âu Mỹ ào ạt vào VN được giới trẻ hưởng ứng.
Lần cuối cùng tôi gặp Nguyễn Vỹ và cụ Đàm Quang Thiện, người dịch thần thoại Hy Lạp cho báo Phổ Thông ở Ngã Bảy rồi sau đó Nguyễn Vỹ mất vì tai nạn xe ở Tân An lúc gần Tết. Ngọc Hân là thi sĩ duyên dáng và vui tính trong tao đàn Bạch Nga, người đã nói Nguyễn Vỹ đăng bài Trả Lời Đinh Hùng của tôi. Sau này chị làm nghề nhiếp ảnh, có lần tôi gặp tại Thị Nghè, bây giờ con cháu đầy đàn cả rồi. Nhắc lại thời Tao Đàn Bạch Nga, tôi và chị, ai nấy đều như luyến tiếc một điều gì đó, một thời tự do của tuổi trẻ đã mất rồi.
Sa Giang – Trần Tuấn Kiệt
0 nhận xét:
Đăng nhận xét